Chị dâu

Lớn lên cách mấy hàng rào
Một ngày vui chị bước vào nhà em
Áo cánh nâu, quần lụa đen
Cặp ba lá, đường ngôi nghiêng mái đầu
Nhà chồng, chồng ở nhà đâu
Em chồng đông, mẹ chồng đau ốm nhiều
Làm dâu gặp phải cảnh nghèo
Đôi bàn tay chị chống chèo lo toan.
Quê mình cái nắng chang chang
Trận mưa tháng tám lụt sang tháng mười
Khi dầm mưa, lúc nắng phơi
Âm thầm một chị qua thời trẻ trung
Bữa cơm em út quay vòng
Đầu nồi đơm xới tay không kịp rời
Nhớ ngày giáp hạt chị ơi
Cả nhà trừ bữa một nồi canh rau
Nghĩ mà thương lắm, chị dâu
Ngày mưa, gạo hết, mẹ đau cuối giường
Em ngồi đôi mắt nhòa sương
Nón tơi, cắp rá ngang vườn chị đi
Chiều ơi mưa mãi làm gì
Hoàng hôn đừng xuống trước khi chị về
Em vào đại học xa quê
Đi biền biệt những mùa hè chiến tranh
Rồi yêu, rồi lập gia đình
Quê nhà tình chị giữ dành không vơi
Dù thư không gửi một lời
Với em chị vẫn là người chị xưa
Bàn chân bấm gót đường mưa
Bữa cơm thêm quả trứng mua láng giềng
Tóc giờ sợi bạc đã chen
Con đầu sinh cháu, chị lên bậc bà
Em về, em lại đi xa
Canh tư chị thức, bếp nhà lửa nhen
Tiễn đưa chân chị không quen
Gói cơm nếp lạc theo em lên tàu....
Ngoái nhìn núi dựng phía sau
Em nhìn dáng chị cuối màu trời xanh.

Vương Trọng
8.1996

        Bài "Chị dâu" của Vương Trọng không mới mẻ về cấu tứ, không dụng công nhiều trong sáng tạo hình tượng trữ tình, thể thơ lục bát dân dã quen thuộc, lời thuật kể mộc mạc dung dị mà đã làm người đọc rưng rưng xúc động. Bài thơ tưởng như chỉ nói riêng về người chị dâu của tác giả, nhưng người đọc cứ liên tưởng miên man, nghĩ ngợi bùi ngùi, như một ám ảnh khó nguôi về thân phận của rất nhiều phụ nữ trong cuộc chiến tranh giữ nước trường kỳ.

        Mở đầu, bằng bút pháp tả thực, Vương Trọng phác họa hình ảnh người chị dâu với dáng vẻ bình dị, đơn sơ, điển hình của các cô gái nông thôn thời chống Mỹ, một nét chân quê dễ mến:

Áo cánh nâu, quần lụa đen
Cặp ba lá, đường ngôi nghiêng mái đầu

        Là một cô thôn nữ lớn lên ở quê nhà, lấy chồng là người cùng xóm, chị hầu như chỉ quẩn quanh trong lũy tre làng (Lớn lên cách mấy hàng rào/ Một ngày vui chị bước vào nhà em). Tác giả không nhắc gì tới nhan sắc của chị dâu khi về nhà chồng- vì nét đẹp chủ yếu của chị đâu phải ở ngoại hình- chủ ý của anh là nêu lên nét đẹp phẩm chất, đức hạnh đáng quý của cô gái quê trong phận làm dâu, vốn là vẻ đẹp truyền thống của phụ nữ Việt Nam mà nhiều ký giả nước ngoài từng ngạc nhiên và ca ngợi. Đó là đức tính nhẫn nhục, chịu đựng, hy sinh thầm lặng vì chồng con và vì cái lẽ lớn lao cao cả: vận mệnh sống còn của Tổ quốc. Sự chịu đựng hy sinh trước hết là phải sống xa chồng đằng đẳng. Đó là vào những năm cây súng theo người đi xa (Trần Đăng Khoa) được nêu trong câu thơ của Vũ Cao "đi xanh áo lính đã vơi trai làng".

        Trong kháng chiến chống Mỹ ở hậu phương làng quê có hàng ngàn nàng dâu trẻ chưa kịp hưởng tròn tuần trăng mật đã phải tiễn chồng ra tiền tuyến, xa xôi biền biệt, năm năm, mười năm có khi đến tận ngày kết thúc chiến tranh anh mới trở về, không hiếm trường hợp người ra đi không có ngày trở lại. Những người vợ lẻ loi ý thức sâu sắc rằng sự chấp nhận cuộc sống cô đơn giá lạnh của họ là cái giá buộc phải trả để giành lấy chiến thắng ngày mai của dân tộc. Cái ý "chia xa" này ta từng gặp trong bài "Đám cưới ngày mùa" của Phan thị Thanh Nhàn (Chú rể là bộ đội/ Về phép rồi đi xa).

        Cô gái làng quê về làm dâu trong một gia đình túng thiếu, đông con, mẹ chồng luôn luôn đau yếu. Ở cái vùng quê nghèo khó, khí hậu khắc nghiệt, một mình chị phải lam lũ, vất vả, lo sao cho cả nhà không bị đứt bữa:

Làm dâu gặp phải cảnh nghèo
Đôi bàn tay chị chống chèo lo toan.
Quê mình cái nắng chang chang
Trận mưa tháng tám lụt sang tháng mười

        Tình cảnh này không hiếm lần xảy ra trong gia đình nhà chồng:

Bữa cơm em út quay vòng
Đầu nồi đơm xới tay không kịp rời
Nhớ ngày giáp hạt chị ơi
Cả nhà trừ bữa một nồi canh rau

        Tôi tin đây là chuyện có thực vì giọng thơ chân thành, thật thà đến cảm động. Chắc hẳn tác giả hết sức xúc động khi nhớ lại nỗi nhà gieo neo quẫn bách, gặp khi mưa dầm gạo hết lại đến tay chị dâu phải chạy vạy khoác tơi nón, vác rá đi vay gạo quanh làng, nên đang giọng thuật kể, anh không kìm nén được (đôi mắt nhòa sương) bỗng thốt lên niềm thương cảm với người chị tội nghiệp:

Nghĩ mà thương lắm, chị dâu
Ngày mưa, gạo hết, mẹ đau cuối giường
Em ngồi đôi mắt nhòa sương
Nón tơi, cắp rá ngang vườn chị đi
Chiều ơi mưa mãi làm gì
Hoàng hôn đừng xuống trước khi chị về

        Ai đọc những dòng thơ trên mà lòng chẳng xót xa bùi ngùi, cảm thương cho gia đình của hai chị em?

        Lúc ấy tác giả còn là một chú em nhỏ, bất lực. Lớn lên, lại đến lượt anh thoát ly đi học. Từ nơi xa, hướng về làng quê nghèo, lòng anh vẫn đau đáu hình bóng người chị dâu đáng quý đáng thương, tâm trí anh còn hiển hiện cái dáng đi lầm lũi, lận đận tội nghiệp của người chị trong những chiều mưa (Bàn chân bấm gót đường mưa).

        Tôi cứ bần thần ngẫm nghĩ mãi về hai câu thơ gợi nỗi buồn man mác, một ám ảnh đến day dứt về số phận thiệt thòi của những người phụ nữ nông thôn phải sống cô đơn ở quãng đời đẹp nhất:

Khi dầm mưa, lúc nắng phơi
Âm thầm một chị qua thời trẻ trung

        Trong chiến tranh có bao người vợ không được hưởng hạnh phúc lứa đôi, ở quê nhà phải dầm mưa dãi nắng, thay chồng vất vả gánh vác việc nước, việc nhà? Héo hon mòn mỏi trong nhớ thương chờ đợi âm thầm, lo âu phấp phỏng, bao nhiêu giọt nước mắt đã ngậm ngùi nhỏ xuống? Tuổi xuân qua nhanh, dung nhan tàn tạ dần qua năm tháng. Tôi nghĩ nhà thơ ắt se lòng xót thương khi anh nói đến tuổi tác xế chiều của người chị cả quãng đời tươi trẻ chị đành để mất:

Tóc giờ sợi đã bạc chen
Con đầu sinh cháu, chị lên bậc bà

        Chú em chồng sống xa quê, lâu lâu trở lại thăm nhà rồi lại ra đi, người chị dâu không nói nhiều chỉ lặng lẽ dậy sớm nấu xôi chuẩn bị cho em ăn đường. Quê nghèo chỉ có mo cơm nếp gói tròn tấm lòng thương yêu chăm sóc của chị (Gói cơm nếp lạc theo em lên tàu). Gói cơm nếp của quê hương khu Tư gian khổ, chân chất mang nặng nghĩa tình, ta từng gặp trong bài Thăm lúa của Trần Hữu Thung.

        Trên đường đi xa, ngoái lại quê nhà, người em cố tìm lại bóng dáng người chị với bao niềm cảm kích biết ơn:

Ngoái nhìn núi dựng phía sau
Em tìm dáng chị cuối màu trời xanh

        Bóng người chị dâu ở cuối chân trời như tạc vào quê hương- biểu trưng sự hy sinh thầm lặng của người phụ nữ hậu phương- sẽ mãi in sâu vào tâm trí bạn đọc.

        Đọc bài Chị dâu của Vương Trọng, tôi bỗng liên tưởng tới hình ảnh người chị dâu đáng thương trong truyện ngắn của Hồ Dzếch (Người chị dâu tôi). Thơ anh đượm buồn, gợi lại giọng thơ ngậm ngùi của Nguyễn Bính trong bài Lỡ bước sang ngang. Tuy rằng thời đại và xã hội nay đã khác xưa, vị thế của những người vợ, những người chị dâu đã thay đổi nhiều, song dường như ngay cả ngày nay, thân phận của những người "chị dâu" những người vợ ở nông thôn Việt Nam vẫn còn phải chịu bao nỗi đắng cay, thiệt thòi và không hiếm những chuyện buồn do những thành kiến bất công và những hủ tục ở nông thôn còn tồn tại. Bài Chị dâu của Vương Trọng, vì thế để lại dư âm và gợi liên tưởng sâu xa trong lòng người đọc. Tuy bài thơ có phần dàn trải và còn có đôi câu "nôm na" thiếu trau chuốt, nhưng chỗ hay của bài thơ chính là ở cái tình, ở cái tâm tức ý nghĩa nhân bản của nó. Cùng với những suy nghĩ bùi ngùi về cuộc đời của những người phụ nữ nông thôn, ta bắt gặp ở đây một tấm lòng nhân hậu, thấm sâu ân nghĩa của tác giả.

(Lời bình của Đình Cao- báo Truyền hình tháng 3/2003)

 

 

[Kỳ trước][Trang chủ][Kỳ sau]

Chuyên mục này được cập nhật vào thứ Tư hàng tuần

Scrolll.gif (2603 bytes)


Thông tin trên mạng Netcodo
Mọi chi tiết xin vui lòng liên hệ tại
Ban Biên Tập Mạng Netcodo
Ðiện thoại: (54)847247 - Email Intranet: quantri@netcodo.vnn.vn

Email Internet: netcodo@hue.vnn.vn