Chương 1
KHÁI
QUÁT VĂN HỌC YÊU NƯỚC VIỆT NAM
NỬA
CUỐI THẾ KỶ XIX (1858-1900)
Chương 1
KHÁI
QUÁT VĂN HỌC YÊU NƯỚC VIỆT NAM
NỬA
CUỐI THẾ KỶ XIX (1858-1900)
***
Thực
dân Pháp đã có ý đồ xâm chiếm nước ta
từ lâu, từ cuối thế kỷ XVIII nhưng âm mưu
này chưa thực hiện được. Mãi đến
cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp lấy cớ
triều đình nhà Nguyễn đã bắn giết các giáo
sĩ và ngăn chặn thông thương nên đã chính
thức xâm lược Việt Nam.
Thực
dân Pháp phải mất gần 40 năm mới đặt
ách thống trị trên đất nước ta và non
một thế kỷ nhân dân ta phải sống dưới
sự cai trị của Pháp.
Trong
điều kiện xã hội Việt Nam nửa cuối
thế kỷ XIX thì sự kiện Pháp xâm lược
Việt Nam là sự kiện quan trọng, nổi bật,
chi phối các sự kiện khác và có ảnh hưởng
rất lớn đến mọi tầng lớp người
trong xã hội.
Trước
sự xâm lược của thực dân Pháp, nhân dân ta
đấu tranh chống Pháp quyết liệt.
Giai
cấp phong kiến lúc đầu còn chống đối
nhưng ngày càng yếu ớt và cuối cùng thì nhượng
bộ, thỏa hiệp, đầu hàng thực dân Pháp.
Nhiều
cuộc khởi nghĩa nổ ra khắp nơi. Tiêu
biểu là cuộc khởi nghĩa của nông dân chống
triều đình phong kiến đầu hàng và chống Pháp
xâm lược. Chẳng hạn như cuộc khởi nghĩa
của Ba Cai Vàng, Ðoàn Hữu Trưng, Trần Tấn…
Phong
trào đấu tranh yêu nước của các sĩ phu, các
lãnh binh đã lãnh đạo nhân dân chống Pháp dưới
ngọn cờ Cần Vương cũng nổ ra rầm
rộ kéo dài từ Bình Ðịnh, Quảng Bình ra đến
Hưng Yên, Thái Bình, Tây Bắc. Các cuộc khởi nghĩa
tiêu biểu như Phan Ðình Phùng, Ðinh Công Tráng, Tống Duy
Tân, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám…
Phong
trào chống Pháp tuy sôi nổi, đều khắp nhưng
không có lực lượng hậu thuẫn làm nồng
cốt nên cuối cùng phong trào đấu tranh chống Pháp
bị thất bại. Mất nước là do nhà
Nguyễn phản động, sợ dân hơn sợ
giặc chứ hoàn toàn không phải do định
mệnh.
Mặc
dù thất bại nhưng cũng chứng tỏ được
tinh thần yêu nước nồng nàn, tinh thần dũng
cảm của nhân dân, khẳng định phong trào đấu
tranh mang tính nhân dân sâu sắc. Có thể nói, đây là
giai đoạn lịch sử đau thương mà hùng tráng
của dân tộc, nhiều hi sinh mất mát nhưng
rất tự hào, giai
đoạn Khổ nhục nhưng vĩ đại.
Trước
những biến cố lớn lao, xã hội có sự phân
hóa giai cấp sâu sắc. Mỗi tầng lớp bị phân
hóa đều mang sắc thái tâm lý riêng, một thái độ
chính trị riêng.
Trong
hàng ngũ giai cấp phong kiến, giai cấp thống
trị cũ của xã hội, thái dộ của họ không
giống nhau nhưng tâm lý chủ yếu của tầng
lớp này là đầu hàng, thỏa hiệp. Bên cạnh
đó có một số sĩ phu, trí thức phong kiến
thấy rõ quyền lợi của phong kiến
cũng chỉ là quyền lợi làm tay sai cho đế
quốc(*)) , họ tiếp thu truyền thống yêu nước
của dân tộc, sống gần gũi với nhân dân nên
đã hăng hái cùng với nhân dân chống giặc.
Số
khác là những nhà thơ, nhà văn yêu nước đã
dùng ngòi bút để chiến đấu, để nói lên
tâm tư, nguyện vọng và thái độ của mình trước
cảnh nước mất, nhà tan.
Bên
cạnh lực lượng nho sĩ, nhiều tầng
lớp mới xuất hiện như tư sản, tiểu
tư sản và vô sản, quyền lợi đối
lập nhau.
Giai
cấp tư sản mới hình thành nên chưa đủ
mạnh để chống lại tư sản chính
quốc, cũng chưa đủ sức để vươn
cao ngọn cờ yêu nước.
Giai
cấp vô sản hầu hết xuất thân từ giai
cấp nông dân, giai cấp này lớn mạnh nhanh chóng
nhất là sau chiến tranh thế giới I. Tuy nhiên, sáng tác
văn học giai đoạn này vẫn thuộc về giai
cấp cũ nên văn học vẫn chịu sự chi
phối của ý thức hệ phong kiến rõ nét.
Vẫn
trong tình trạng lạc hậu, trì trệ. Triều đình
tôn sùng nho học, xem nho giáo là quốc giáo, lợi
dụng tôn giáo là công cụ để thống trị xã
hội…Khổng, Mạnh, Trình… được xem là
những vị thánh. Sách vở của họ là thiên kinh
địa nghĩa. Học trò đi thi chỉ học
thuộc lòng một số câu, đoạn trong sách vở…
Ðiều này làm hạn chế óc sáng tạo của con người.
Ngoài
nho giáo thì Ðạo giáo, Phật giáo và các tín ngưỡng
khác cũng rất phát triển. Binh tướng đều
xem bổn mạng trước khi ra trận, trời
hạn hán lâu ngày, các triều thần lập đàn
cầu đảo để được mưa… Ðiều
đó lộ rõ được sự bảo thủ
nặng nề trong mọi hoạt động. Con người
tin vào mệnh trời. Họ tin vào lực lượng siêu
hình có khả năng
giải quyết mọi thành bại ở trên đời.
Ðiều đó làm hạn chế sự cố gắng
của con người.
Trước
tình hình đó vẫn có một số sĩ phu có đầu
óc canh tân như Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Trường
Tộ… có dịp học hỏi khoa học kỹ thuật
tiến bộ nên đã nhiều lần đưa ra
những kiến nghị cải cách xã hội.
Nguyễn
Trường Tộ đả kích lối học từ chương,
hư văn, chủ trương học khoa học kỹ
thuật, học thiên văn, địa lý, luật, sinh
ngữ… Học tức là học cái chưa biết để
mà biết, biết để mà
làm (Tế cấp bát điều). Ông say sưa với
những đề nghị cải
cách đất nước thậm chí viết cả trên
giường bệnh.
Giống
như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ
Trạch chủ trương mở rộng giao thiệp
với nước ngoài, trọng việc học kỹ
nghệ Việc học kỹ nghệ không phải khó như
việc cắp nách túi Thái Sơn
để vượt qua biển Bắc như lời
thầy Mạnh. Vả lại, theo tình hình khẩn
cấp, lúc khát mới lo đào giếng thì đã
chậm, nhưng chậm còn hơn là không biết mãi. Dù mất dê
mới lo làm chuồng cũng chưa phải là muộn
(Thời vụ sách thứ hai)
Nhưng
triều đình mục nát không nghĩ gì đến
vận nước nên nhiều bản điều trần
của hai ông bị vùi trong quên lãng. Tư tưởng con
người quay về với nề nếp nho gia, cổ hủ, có ảnh
hưởng làm hạn chế sự phát triển của văn
học đương thời.
1. Về nội dung văn học |
1.1.
Văn học mang tính thời sự:
Tính
chất thời sự chi phối toàn bộ đời
sống văn học và làm thay đổi diện mạo
văn học. Văn học giai đoạn này ra đời
trong hoàn cảnh lịch sử xã hội đặc
biệt có nhiều biến cố trọng đại nên văn
học gắn với chính trị và phục vụ cho
cuộc đấu tranh chính trị. Với yêu cầu
cấp thiết đó, văn học đã phản ánh
những vấn đề trung tâm nóng hổi của
thời đại: Cuộc đấu tranh của nhân ta
chống thực dân Pháp. Ðây là chủ đề chính
của văn học thời kỳ này. Trước kia chưa
có một giai đoạn nào mà sự chuyển biến
về chủ đề và
đề tài trong văn học lại nhanh chóng và theo sát
biến cố đến vậy.
Nhiều
tác phẩm yêu nước
ra đời đã ghi lại những biến cố
lớn lao của đất nước. Miên Thẩm có
nhắc đến sự kiện Pháp tấn công Ðà
Nẵng:
Nẵng
tuế Tây di phạm Quảng Nam
Quan
quân chiến bại huyết thành đàm.
(Mại
chỉ y)
Dịch
nghĩa:
Năm
kia giặc tây đánh Quảng Nam.
Quân
ta thua chạy máu chảy thành đầm.
(Mua
áo giấy)
Phạm
Văn Nghị trên đường hành quân vào Ðà Nẵng
đã làm bài Trà sơn quân thứ
nói lên lòng căm thù giặc của mình.
Nguyễn
Ðình Chiểu có viết hàng loạt tác phẩm yêu nước
phản ánh cuộc chiến đấu của nhân dân,
tố cáo tội ác của giặc và kêu gọi nhân dân
đứng lên chống Pháp.
1.2.
Văn học mang tính trữ tình:
Văn
học giai đoạn này đã kế thừa tính trữ
tình của văn học dân gian và văn học bác
học đồng thời có sự
vươn một buớc theo hoàn cảnh mới
của lịch sử. Vì vậy nó chịu ảnh hưởng
sâu sắc tính trữ tình của văn học giai đoạn
trước, chủ yếu đi sâu vào chủ đề
con người nên chất trữ tình của nó
rất phong phú và đa dạng. Nhưng trữ tình ở
đây là trữ tình yêu nước, phát triển trên
cảm hứng mới của chủ đề đó là lòng
yêu nước gắn liền với những biến
cố lớn lao của đất nước.
Văn
học giai đoạn này đã thể hiện tình
cảm yêu nước của nhân dân bằng những
lời lẽ thiết tha sâu nặng. Do đó yếu
tố lãng mạn đã giữ vai trò không thể
thiếu được để đảm bảo cái nhìn
vừa đúng hiện thực vừa vừa phù hợp
với nguyện vọng của nhân dân. Ngay Nguyễn
Khuyến và Tú Xương là những nhà thơ hiện
thực trào phúng nhưng cũng có những bài thơ
trữ tình độc đáo.
Có
thể nói, văn thơ yêu nước phong phú về
trữ tình nhưng không thiếu tự sự kể
cả trào phúng, tính trữ tình là yếu tố căn
bản của văn học yêu nước chống Pháp.
2.1.
Ngôn ngữ:
Vẫn
tồn tại hai thành phần chữ Hán và chữ Nôm. Có
tác giả viết hoàn toàn bằng chữ Hán như
Miên Thẩm, Nguyễn Thông, Nguyễn Quang Bích,
Nguyễn Xuân Ôn… Có tác giả viết bằng chữ Hán
vừa bằng chữ Nôm như Nguyễn Khuyến. Có tác
giả viết chủ yếu bằng chữ Nôm như
Nguyễn Ðình Chiểu, Trần Tế Xương…
Bên
cạnh đó chữ quốc ngữ cũng được
khích lệ dưới nhiều hình thức: Báo chí, phiên
âm, dịch thuật…. Trương Vĩnh Ký, Huỳnh
Tịnh Của đã cò nhiều hoạt động
rộng rãi nhằm phổ biến chữ quốc ngữ
như phiên âm, dịch một số tác phẩm chữ Nôm
và chữ Hán ra chữ quốc ngữ, biên soạn
truyện cổ tích bằng chữ quốc ngữ, làm
tự điển, ngữ pháp… Sự ra đời
cuốn Ðại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh
Tịnh Của xuất bản năm 1895 và 1896 là một công
trình biên soạn có giá trị.
Một
loạt những ngôn gnữ hàng ngày rất mới,
rất mộc mạc đã đi vào thơ văn và có giá
trị hiện thực đáng quý.
2.2.
Thể loại:
Thể
loại thể hiện tính đại chúng, tính nhân dân sâu
sắc.
-
Các thể
loại dài như: Truyện thơ Lục vân Tiên , Dưong
Từ Hà Mậu, Ngư Tiều y
thuật vấn đáp.
-
Các thể loại ngắn như:
Sử
ca, thơ Ðường, thơ lục bát, vè hịch, văn
tế… Trong đó hịch và văn tế là hai thể
loại tiêu biểu vì nó thích hợp cho việc kêu
gọi và diễn đạt tình cảm lớn.
Các thể loại ngắn là thể loại thành công
hơn cả vì nó sáng tác nhanh, mang tính thời sự và
phục vụ kịp thời đáp ứng được
yêu cầu của cuộc chiế đấu và tình
cảm của nhân dân.
-
Các thể loại sân khấu: Tuồng, chèo cũng phát
triển . Về nội dung chưa có gì đổi mới
đáng kể so với trước nhưng về hình
thức thì có nhiều đóng góp.
2.3.
Về mặt hình thức nghệ thuật:
Phương
pháp chính vẫn là phương pháp sáng tác truyền
thống. Nhưng do yêu cầu phản ánh trung thực và
gần gũi để động viên chiến đấu
nên văn học đã vận dụng hniều chất
liệu hiện thực, mang sắc thái phê phán và ít
nhiều đã phá vỡ những khuôn khổ của phương
pháp sáng tác truyền thống. Ðặc biệt là Trần
Tế Xương, tác giả có nhiều đóng góp trong
việc sáng tác một phương pháp mang đậm tính
hiện thực.
Trong
bộ phận văn học chữ Hán, phong cách biểu
hiện của thơ vẫn chưa có gì đổi
mới, vẫn chưa thoát khỏi biểu hiện có tính
chất công thức, ước lệ của văn
học phong kiến. Riêng văn xuôi chữ Hán có phần
khác trước, câu văn trong sáng, giản dị hơn,
lập luận cũng chặt chẽ, lô gích hơn.
Trong
bộ phận văn học chữ Nôm, nghệ thuật
biểu hiện một mặt kế thưà truyền
thống; mặt khác có sự đổi mới đáng
kể. Văn học giai đoạn này bớt lối
diễn đạt chung chung, ước lệ, không cụ
thể mà bám sát đời sống. Trong thơ hiện
thực trào phúng nổi bật lên tính cụ thể, cá
thể rõ nét, các nhà thơ đã dùng tiếng cười
để xua tan mọi suy nghĩ siêu hình, tự biện,
chất sống của nó rõ hơn trong thơ trữ tình.
Cùng
với lối biểu hiện có tính chất cá thể,
cụ thể lịch sử, thơ thời kỳ này còn
xuất hiện cái tôi trữ tình. Phong cách cá nhân rõ nét.
Những đại từ ngôi thứ nhất số ít như
Tôi, tớ, anh, em, ông, mình… đã thay thế cho ta,
hoặc một ẩn chủ ngữ cùng loại. Ðiều
này đã làm cho văn học giai đoạn này có
tiếng nói riêng vừa gần gũi vừa đại chúng.
III.
CÁC KHUYNH HƯỚNG VĂN HỌC:
Yêu
nước vốn là truyền thống lâu đời
của dân tộc. Trải qua hàng chục thế kỷ
chống ngoại xâm, từ buổi đầu dựng nước
cho đến khi có văn học thành văn, nhân dân ta
thể hiện lòng yêu nước mãnh liệt của mình.
Ðến
nửa cuối thế kỷ XIX, khi Pháp sang, truyền
thống yêu nước vốn là truyền thống lâu
đời của dân tộc lại có dịp bùng lên
một cách mạnh mẽ. Văn học chống Pháp ra
đời đã kế thừa một cách tốt đẹp
truyền thống yêu nước trong lịch sử và
và có những bước phát triển phù hợp
với hoàn cảnh mới của lịch sử.
Văn
thơ yêu nước đã vạch trần những
luận điệu hèn nhát, bỉ ổi của triều
đình, bọn vua quan vô trách nhiệm, bè lũ Việt
gian bán nước thành những bản án đanh thép
hoặc những trang châm biếm sắc sảo.
-
Hịch
đánh Tây của Lãnh Cồ
-
Hà
thành thất thủ ca.
-
Hà
thành chính khí ca.
-
Vè
thất thủ kinh đô.
-
Biểu
trần tình của Hoàng Diệu
-
Phú
kể tội Pháp đánh Bắc kỳ lần I của
Phạm Văn Nghị.
-
Hịch
kêu gọi nghĩa binh đánh Tây của Nguyễn Ðình
Chiểu…
-
Mặt
khác , nó còn phản ánh tâm lý đau xót của nhân dân trước
cảnh nước mất, nhà tan (bài Cảm tác của
Phan Văn Trị, Vè thất thủ kinh đô của nhân
dân Huế, Văn tế nghĩa
sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Ðình Chiểu…)
Khuynh
hướng này đã đem đến cho văn học
một luồng sinh khí mới, một sức sống
mới. Các tác giả tiêu biểu của khuynh hướng
này là Nguyễn Ðình Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn
Thông, Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Xuân Ôn…
Có
quan hệ chặt chẽ với khuynh hướng yêu nước
chống Pháp. Các nhà văn này, ban đầu sáng tác văn
học yêu nước nhưng về sau khi phong trào kháng pháp
thất bại, Pháp chiếm toàn bộ đất nước
ta, xã hội bộc lộ những chướng tai gai
mắt nên các nhà văn này đã dùng ngòi bút của mình
để phơi bày những mặt trái của xã hội
bằng khiếu hài hước nhạy bén của mình.
Họ đã lấy việc tố cáo làm phưông
tiện để gây căm thù nhằm mục đích kêu
gọi chiến đấu.
Khuynh
hướng này phát triển thành một khuynh hướng
độc lập, tuy kkông đông đúc như khuynh hướng
yêu nước chống Pháp nhưng cũng khá đa
dạng, phát triển khắp trong Nam ngoài Bắc. Các tác
giả tiêu biểu của khuynh hứơng này là
Nguyễn khuyến, Trần Tế Xương, Học
Lạc, Nguyễn Thiện kế, Tú Quỳ, Kép trà,
Trần Tích Phiên,, Nguyễn Hiển Dĩnh, Học Quế…
Bên cạnh đó còn có những tác giả dân gian,
của loại truyện Ba giai Tú Xuất, chất tố cáo
càng mạnh mẽ.
Các
bài thơ tiêu biểu :
- Ông
làng hát bội, Chó chết trôi của Học lạc.
-
Vịnh Lê Hoan, Vịnh tri phủ Quảng Oai của
Nguyễn Thiện kế. -
-
Ông Phỗng đá, Thầy đồ ve gái góa của
Nguyễn Khuyến.
-
Ðất Vị hoàng, Mùng hai tết viếng cô Ký của
Trần Tế Xương…
Khuynh
hướng này có nhiều đóng góp đáng kể cho
sự phát triển của ngôn ngữ dân tộc.
Khuynh
hướng này ra đời và phát triển song song
với khuynh hướng hiện thực trào phúng. Ða
số các nhà thơ thuộc khuynh hướng này đều
xuất thân từ tầng lớp quan lại phong kiến
suy tàn, mang tâm lý hưởng lạc, cá nhân, tùy thời.
Trong bối cảnh chung là sự thất bại của
phong trào chống Pháp và việc đặt ách thống
trị lên đất nước ta, một số khác ra làm
quan mục đích để hưởng nhàn chứ không
đàn áp phong trào kháng chiến, số khác thoát ly vào thơ,
rượu, vào mộng, vào tình yêu…
Khuynh
hướng này thường viết về thiên nhiên,
thời thế,tâm trạng, thỉnh thoảng có bày
tỏ nỗi lòng yêu nước thầm kín nhưng
chủ yếu nói về cuộc sống ăn chơi, hưởng
lạc của họ. Các tác giả tiêu biểu như Dương
Lâm, Dương Khuê, Chu Mạnh Trinh…
Sáng
tác của họ thường
bằng chữ Nôm nên đã có những đóng góp
nhất định trong việc trau dồi ngôn ngữ dân
tộc. Tuy nhiên, khuynh hướng này thường chủ
trương là co về mình, thích hưởng lạc, lao vào
ăn chơi nên ít nhiều cũng gây ảnh hưởng
tai hại.
Ðây
là khuynh hướng phản động bao gồm những
tên tay sai cho Pháp, như Tôn Thọ Tường, Hoàng Cao
Khải.
Nội
dung của khuynh hướng này là ca ngợi người
Pháp, bênh vực biện hộ cho những tên tay sai,
phục vụ cho mục đích chính trị của Pháp.
Trong
thời kỳ đầu khuynh hướng này còn tỏ ra
ra dè dặt, úp mở nhưng càng về sau càng lộ rõ
tính chất phản động của nó. Tiêu biểu có
Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh.
IV.
ÐẶC ÐIỂM CỦA VĂN HỌC YÊU NƯỚC
CHỐNG PHÁP:
Văn
thơ yêu nước tự phát tham gia gánh vác nhiệm
vụ của dân tộc một cách vẻ vang. Nó gắn
liền với vận mệnh của dân tộc trong
một giai đoạn lịch sử bi tráng. Ðồng
thời nêu lên hai vấn đề có liên quan đến
vận mệnh của dân tộc: Vấn đề chính
trị và vấn đề nhân sinh.
1.1.
Vấn đề chính trị:
-Vấn
đề Duy tân được thể hiện qua các
bản điều trần của những sĩ phu có
đầu óc canh tân như Nguyễn Trường Tộ,
Nguyễn Lộ Trạch. Hai ông đã nhiều lần
đề nghị triều đình nghiên cứu thực
hiện chủ trương cải cách đất nước,
nhưng không được triều đình chấp
nhận, việc Duy tân thất bại.
-
Vấn đề chống Pháp, chống thỏa hiệp
đầu hàng là vấn đề trọng tâm của
văn học yêu nứơc chống Pháp.
-
Vấn đề vai trò của người dân có ý nghĩa
lịch sử quan trọng, nhất là trong việc
chống ngoại xâm. Thơ văn yêu nước của
Nguyễn Ðình Chiểu không chỉ ca ngợi người
dân ở chiến lược, chiến thuật, về tinh
thần chiến đấu mà còn ở nhận thức
tự phát của họ:
Nào
đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn
kình.
Chẳng
thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc
ra tay bộ hổ.
(Văn
tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Trong
bức thư Phan Ðình Phùng trả lời Hoàng cao Khải
nhân dân là mục tiêu phục vụ, mục tiêu
bảo vệ và chiến đấu của nghĩa quân, nhân
dân gắn liền với phong trào kháng chiến.
1.2.
Vấn đề nhân sinh quan:
Nói
đến nhân sinh quan là nói sống để làm gì?
Sống như thế nào?Thái độ của con người
trước sự sống và cái chết? Ðể giải
quyết các vấn đề chính trị, thơ văn yêu
nước đặt ra những vấn đề mang ý
nghĩa thời sự.
-
Vấn đề sống - chết được giải
quyết không theo quan điểm con người trừu tượng
theo kiểu tôn giáo mà từ góc dộ của cuộc
đấu tranh dân tộc. Tức là sống trọng nghĩa
và chết đúng đắn
Làm
người sao khỏi thác, thác trung thần thác cũng thơm
danh
(Hịch
Quản Ðịnh)
Hay:
Khẳng
nhẫn sinh phùng bạch quỷ ưu.
(Nguyễn
Cao điếu Nguyễn Tri Phương)
-
Khái niệm vinh - nhục theo quan điểm thà chết
vinh hơn sống nhục. Sống đánh giặc cứu
nước là sống đúng, chết vì nước nhà là
vinh, sống theo giặc đầu hàng phản bội là
sống nhục (Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc, Văn tế Trương Ðịnh, Thơ
điếu Phan Tòng).
-
Khái
niệm chính khí gắn với hành động vì nghĩa:
Nhớ
câu kiến nghĩa bất vi
Làm
người thế ấy cũng phi anh hùng
(Nguyễn
Ðình Chiểu)
(Thấy
nghĩa há đành làm kẻ không có dũng)
(Hồ
Huấn Nghiệp)
Các
vấn đề nhân sinh quan được đặt ra
dựa vào các hệ tư tưởng vốn có ở nước
ta nhưng chủ yếu từ cơ sở, tư tưởng
Việt Nam, từ những giá trị tinh thần truyền
thống của dân tộc.
2.
Văn thơ yêu nước gắn với cuộc sống
dân tộc và con người thời đại: |
2.1.
Văn thơ yêu nước phản ánh về dân tộc và
về thời cuộc:
Văn
thơ yêu nước là cuốn sử thi của thời
đại đã ghi chép một cách cảm động
trung thành cuộc đấu tranh của dân tộc. Ðó còn
là lịch sử khổ nhục nhưng vĩ đại
của dân tộc Việt Nam trong giai đoạn này.
Văn
thơ yêu nước còn chứng tỏ rằng dẫu nước
mất nhưng còn dân, còn giá trị tinh thần truyền
thống và tin tưởng vào thắng lợi của dân
tộc.
2.2.
Văn thơ yêu nước phản ánh về con người
thời đại:
Ðó
là những con người tiêu biểu như người
sĩ phu, người trí thức bất hợp tác, người
nông dân, người phụ nữ, người nghĩa sĩ
… Bên cạnh đó còn có những tên sâu dân mọt nước
như bọn vua quan, bọn tay sai và cả một bức
tranh xã hội Việt Nam giai đoạn nửa cuối
thế kỷ XIX được tái hiện một cách
đấy đủ, sinh động.
Có
thể nói, với những nét hào hùng về thời đại,
về dân tộc, về con người, văn thơ yêu nước
được xem như pho sử thi đau thương nhưng
không kém phần hùng tráng của dân tộc Việt Nam
trong giai đoạn lịch sử khổ nhục nhưng vĩ
đại.
Cuộc
đấu tranh trong giai đoạn này rất hào hùng nhưng
không tránh khỏi thất bại. Âm hưởng chung
của văn thơ yêu nước giai đoạn này là
âm điệu đau thương nhưng anh dũng.
Thậm chí cái buồn, cái bi quan cũng không phải không
gây phẫn uất. Do đó, nó là một âm điệu bi
hùng.
Ðây
là giai đoạn cuối cùng của văn học
được sáng tác dưới sự chi phối
của ý thức hệ phong kiến. Văn học giai
đoạn này đã bám sát cuộc sống, cuộc đấu
tranh của nhân dân ta chống Pháp, đã ghi lại
một cách sinh động trung thành một giai đoạn
lịch sử đau thương mà hùng tráng của dân
tộc, ghi lại cuộc chiến đấu bền
bỉ của dân tộc ta. Có thể nói, giai đoạn này
mang tính chiến đấu cao, tính dân tộc, tính đại
chúng dồi dào, rõ rệt.
Cho
đến nay, những tác phẩm yêu nước vẫn
luôn mới về tinh thần đấu tranh chống xâm lược,
chống thỏa hiệp đầu hàng, và nó đã để
lại không ít bài học về nhiều mặt, từ tư
tưởng đến tình cảm, không chỉ cho một
thời mà còn cho lâu dài.