Xuân Diệu (1916 - 1985)

Cái hỏa lò

Mẹ của Siêu, Siêu gọi bằng Má. Má Siêu xa thầy Siêu, mẹ về bên ngoại ở. Siêu, con cá nhỏ giữa hai dòng nước, được về với má trong ít lâu. Siêu kể lại một kỉ niệm thời ấy. Các bạn ơi, hãy nghe chuyện một cái hoả lò. Người ta rủ nhau đau khổ vì một ít đất nặn lại.

*
* *

Khi lên sáu, không hiểu trời dun dủi thế nào, tôi được rời nhà thầy tôi trong hai tháng, về ở với má tôi, tại nhà bà ngoại.
Ôi thiên đường ở nhà bà tôi ! Mình tôi nhẹ bỗng không khi nào chịu đi từng bước, chỉ nhảy và chạy. Tôi sung sướng, tôi nở khắp toàn người, tôi sung sướng.
Một bữa trưa, cơm dọn rồi trên phản gỗ. Có cá chiên, có tôm kho, có rau và canh, có cả thịt nướng. Hôm ấy ê hề quá ! tôi đã ăn bằng mắt đến hai lần rồi. Khi bà tôi và mọi người xúm quanh mâm, tôi trèo lên phản để ăn bằng miệng. Tôi vừa cầm đũa, toan gắp thì bà nói :
- Siêu, mày không mời má mày ăn cơm à ?
Tôi mới hay rằng má tôi còn ở dưới bếp. Vậy đó, mấy người đàn và hay làm bộ để "ăn sau" hoặc ít nữa cũng để muộn. Hễ trong một gia đình có dì, mợ hay chị, ba bốn người, thì tất nhiên họ nhường lẫn nhau. "Chị lên trước đi ! Em bận tay chút nữa". Thế rồi ai cũng cố là người lên sau cùng.
Tôi chạy xuống nhà dưới : vòng hai tay lại cho có lễ phép :
- Dạ thưa má lên ăn cơm
- Con lên ăn đi, má ăn ở đây.
- Không, bà bảo lên mà. Má không nghe bà giận.
- Con lên thưa bà, má đã có thức ăn ở dưới này. Vừa nói, má tôi vừa bưng một niêu cơm nhỏ để trên chiếc chõng con. Thức ăn là một chén cơm muối vừng mà tôi chắc mặn muối lắm, vì nhiều màu trắng, ít màu vàng. Xới cơm vào chén rồi, má tôi cười yêu :
- Con lên mau đi, kẻo người ta ăn hết. Hay là con ở đây ăn với má ?
- Không, tôi chả ăn đâu : muối vừng ngon sao cho bằng cá thịt !
Tôi đến thưa bà : "Má đương ăn dưới nhà bếp".
Bà nói : "à phải, má mày nó muốn ăn riêng".
¡n riêng ? Một tiếng lạ. Tôi đến sực nhớ bèn hỏi chị Bốn, chị cắt nghĩa cho tôi hiểu : ăn riêng có nghĩa là để vốn riêng, buôn bán lấy lời, ăn cơm của má kiếm ra chứ không ăn luỵ của bà mãi. Chị Bốn cũng như tôi, là cháu ngoại của bà, mẹ cha chết sớm, chị nương nhờ ở đây đã mười lăm năm. Ðủ hiểu rồi, tôi đến thỏ thẻ với má tôi :
- Chỉ có muối mè, thì ăn chung có hơn không. Má ăn như vậy, chắc xẵng miệng lắm.
Má xoa đầu tôi :
- Mày sang lắm nhé ! Muối mè đã ngon rồi. Chớ hồi má đẻ con, má ăn cơm với muối rang không thì sao. ¡n như vậy gần hai tháng. Lại còn đau nữa, đau mê man. Mà thuốc thang có gì đâu ? Chỉ có nước tiểu xin của thằng nhỏ bên láng giềng, bỏ thâm một chút tiêu sọ.
Eo ôi, má tôi can đảm quá ! Riêng mấy người đàn bà đẻ mới chịu khó được đến thế. Tôi dụi đầu vào cổ má, vuốt cằm và nói mơn :
- Má chịu khổ vì sinh con ra đó.

*
* *

Cách mấy ngày sau, tôi đương chơi "làm nhà" trong sân bếp, gần đống gạch. Tôi lụi hụi đặt viên này chồng lên viên khác, đã làm thành một cái lầu hai tầng. Chừng ấy ở đủ sao ? Tôi bèn cất thêm một cái lầu nữa : có đi đi về về mới vui.
Trời nhiều mây, nên tuy còn sớm mà trông đã tối. Chị Bốn ôm rổ ở chợ về, hai chân vội vã, tà áo dài đen làm gió sau mình. Bảy tám con ruồi túa theo sau rổ, chị vừa đặt xuống thì chúng ồ lên.
Tôi nghĩ : "Ðấy, tụi nó đến nhập đàn ruồi ở nhà mình". Tôi nhớ ngay đến cái quán nước của bà Gồng, nơi tôi thường đến mua khoai lang, và lẩm bẩm : "Khi nào bán xôi đậu đen, người ta không biết trong đĩa xôi hột nào là ruồi, hột nào là đậu. Sao họ ăn được nhỉ ? Có phen nuốt ruồi vào bụng chứ chẳng không. Bà Gồng phải lấy một cái chai trắng, đổ nước vào quá nửa, rồi quệt đường bên trong cổ trai. Thế là các chị ruồi mon men theo dấu ngọt, bò dần vào, cho đến lúc xa quá sẩy chân, rơi ùm xuống nước. Rồi bơi bơi như trong hồ. Nhưng đời nào thoát được chứ ! Từ mai đến chiều, bà quán được gần đầy một chai đen, thằng con mắt nhọ nhem thấy cái kết quả ghê tởm ấy lấy làm thích chí lắm".
Chị Bốn bưng rổ thức ăn vào bếp, chị nhìn quanh khi nhìn đến chỗ để cái hoả lò thì cái hoả lò đã bị má tôi chiếm rồi.
Ðã tối, rối thêm ! Lấy gì kho cá cho bà ăn cơm ? Chị Bốn hậm hừ, nói nhỏ nói to gì đấy. Má tôi không nhịn cháu, nói lại. Nhất là trong lòng : chắc má tức, má nghẹn, má xẳng xớm trong lòng, vì thay má rời nhà cửa rồi, không còn chặt chẽ bằng một người cháu ngoại. Mà hễ má giận thì tôi rất thương ; má có hay đanh đá cùng ai đâu ! Má được tiếng là hiền hậu, thiệt thà, ai ăn hiếp cũng được.
Bây giờ sự chếch mếch tăng thêm : tôi nghe tiếng dằn vặt bát chét, tiếng đạp thúng hất nồi, tiếng cãi gắt. Khi má tôi đi nhổ miếng nước trầu, má tôi ngó tôi như người không quen biết, má không chú ý tới tôi. Lần thứ hai đi ngang qua, má nạt :
- Siêu ! Mày có đem chất gạch lại không ! Máy khuấy thế à ? Của của bà, chớ của mẹ mày đâu ? Dẹp lại !
Tôi tiu nghiu, vội vàng tháo cái nhà công phu xây dựng, đã liều mặc hai tay trầy sướt, đã quên không sợ gạch rớt giập chân. Nhà mới làm xong, chưa được ở thử, nhưng thôi ! Cái vách này dỡ đi, cả cửa này lấy ra, cái mái nhà này để làm gì ? Và cả từng lầu thứ ba, hãy đạp đi nốt !
"Thế đấy, mẹ con mình ở nhờ ở cậy, ăn chực ăn xin. Mẹ con nghèo xác xơ, chẳng có gì hết. Ai muốn đuổi mà chẳng được. Bơ vơ... bơ vơ...".
Siêu nghĩ thế, tủi thầm, nên tay Siêu chậm chạp. Vả lại rinh xuống thì dễ, rinh lên thì khó, nên thu dẹp rất lâu. Chết ! Tiếng xẳng xớm càng to, chắc bà nghe thấy mất ! Má đi hỉ mũi. Vì khói hay vì khóc. Má khóc, tức nhiên Siêu phải khóc lây. Siêu rơm rớm nước mắt. Nhưng Siêu ngậm miệng chặt. Khốn quá, cái gì ùn lên cổ, miệng cứ muốn phồng ra. Ráng ngậm chút nữa thôi, chút nữa thôi, cái ấy sẽ tan liền : nếu mở mồm, tất phải ào ra mất. Ðấy, đã hơi muốn hạ rồi đấy. Siêu không dám động tay chân, như những khi bưng một chén nước đầy cho bà súc miệng.
Nhưng bà đã nghe tiếng cãi cọ. Bà đi xuống bếp, tay cầm cái roi. Không phải đánh Siêu đâu : đời nào. Thế đánh ai đây ? Má, chắc đánh má, Siêu sợ giùm tưởng tượng đau ở mông và nghe một tiếng "trót". May thật, cố Siêu bớt phồng một tí, nước mắt chạy đi đâu bớt vài phân. Nhưng chỉ sụt một ti ti thôi : đang còn nặng cuống họng lắm.
Bà thở dài một cái, nói to mà như ngăn lại không cho tiếng ra :
"Kinh lộn ! Kinh lộn ! Bếp với lò ! Dì với cháu ! Không biết của chi nhà bay mà bay giành nhau ?".
Tiếng má và chị Bốn đáp lại một lần, nói cả dây, cả lũ. Bà đến giơ roi quất chị Bốn : chị khóc hu hu : hay tay chị xoa xuýt nơi mình, chị kêu : "Tội quá, tội quá !". Nhưng chị cũng chưa hết cãi. Bà giận lắm, đá ngay vào cái hoả lò :
- Còn giành nhau nữa thôi ? Giành ! Kình !
Cá với lừa, với đất trộn nhau, nước vào than kêu xèo xèo. Luôn giận, bà đổ rổ rau, bà đập trã canh, bà hắn mớ tôm chị Bốn vừa bóc vỏ. Chỉ trong nửa phút, bao nhiêu thức ăn tan tành.
Nửa phút gấp ấy, cổ Siêu lại phồng lên lại, nước mắt góp mau thêm ; thấy chuyện dữ, Siêu kinh hãi, không biết trong lòng Siêu đương thế nào. Lệ đã lăn vài giọt xuống má. Nhưng Siêu gắng, thế còn mạnh lắm, miệng ngậm cứng, hai hàm răng khít nhau : Siêu đang giữ một bờ đê không cho vỡ lụt. Dường như gân cốt cả người dồn lên nơi cuống họng. Ngực cũng dội lên.
Bỗng Siêu nghe năm tiếng "trót" tiếp nhau : chị Bốn đã bị đánh thêm, đau quá, chị vừa kêu vừa khóc tầm tã. Bà thét, má nói, chị khóc ; ôi, cái hoả lò khốn nạn, cái hoả lò !
Bực một cái, đê vỡ rồi ; bao nhiêu tiếng ào ra, hết mong, hết nín ! siêu vùng chạy một mạch, khóc ré lên. Chao ôi nước mắt ở đâu nhiều thế này. Siêu lấy tay áo quệt mà không dứt. Và cái ngực ! Nó phồng lên ! Và cái cổ ! Nó kêu to, chốc chốc nấc một tiếng. Ôi cái hoả lò ác nghiệt, cái hoả lò bằng đất, cái hoả lò !
Siêu nép sau một cánh cửa, khóc như gió như mưa. Siêu ngồi xụp xuống, để trút ra bao nhiêu nặng trĩu trong lòng. Siêu khóc, Siêu khóc...
Khi Siêu đã khoẻ, Siêu nghe tiếng chân bà ở dưới bếp đi lên. Siêu vội lẻn ra trước sân, sợ bà thấy, sợ thấy bà, Siêu nghe cái gì mơi mới trong mình, Siêu đã nín.
Nhưng Siêu buồn, buồn lắm. Còn gì nữa đâu ? Nồi niêu đã vỡ cả, cá thịt đổ cả rồi ; nhất là chị Bốn đương đau, má đương buồn, bà đương mệt vì giận. Biết đâu bà không khóc ? Bà lại sung sướng gì sao ? Ôi, cái hoả lò, cái hoả lò, vì mày mà nên cơ sự !
Thỉnh thoảng, Siêu thít một tiếng, ở đâu trong mũi còn sót lại. Mắt Siêu như mới rửa, nức còn đọng nơi lông nheo, hễ nhíu lại mà trông ra thì thấy cây cối đều rung mờ.
Siêu đi thơ thẩn ra ngời đường. Những người láng giềng hỏi Siêu :
- Em khóc hay sao mà hai ống tay áo ướt vậy em ? Té ra họ chưa biết ư ? Cơm gạo đổ hết, nồi niêu đập cả thế mà họ hỏi như không, Siêu không nói năng, đứng ngẩn.
Và hãy còn buồn, buồn như mọi sự đều kết liễu. Buồn như phải rời nhà bà về ở với thầy. Buồn hơn trời mưa, buồn hơn chiều tối.
Một lát, Siêu vào lắng tai nơi cửa, thấy mọi tiếng đều im ìm. Cái lặng lẽ nghiêm nghị quá, làm Siêu sợ, Siêu chậm rãi bước vào, đề phòng từng bước đi, từng cử chỉ. Nơi cái bàn nhỏ, có một niêu cơm. Bà tự tay nấu lấy nồi cơm này, vì nồi trước đương sôi, thì bà đến đập vỡ, và bà hờn, mà hờn chị Bốn, không cho ai nấu lại, để mặc bà nấu bà ăn. Bà chan nước mắm vào cơm, ngồi một mình uể oải. Thấy Siêu, bà nói lạnh lùng :
- Siêu, đi lấy chén ăn cơm.
- Vâng, cháu đi lấy.
Ði ngoan hơn người lớn. Không chạy nữa. Tay bấu vào chén. Lỡ rơi vỡ thì sao ? Và ngồi ăn.
Bụng ban nãy thóp vào để cuộn nước mắt lên, bây giờ mỏi lắm. Khi Siêu nuốt cơm vào, Siêu nghe đau đau. Cơm bà nấu cứng quá. Nước mắm ăn chẳng ngon. Ôi cái hoả lò, cái hoả lò, cái hoả lò đáng ghét !
Hai hôm sau, buổi trưa. Siêu xuống bếp, chị Bốn cười rất dễ thương, nhờ Siêu một chuyện :
- Em ở đây chơi, coi giùm nhà cho chịu, kẻo ai nấy đều ngủ hết. Em giữ khéo đừng cho mèo vào lục cũi. Chị đem bỏ cái hoả lò nơi gốc đa, bên cạnh đình làng.
Cây đa có treo ấm và ông bình vôi, có hai trang thờ, và ở dưới chân, có vô số hoả lò và ông táo, cây đa to tát đấy ư ? Không, không thể được. Cái hoả lò kia không được sung sướng thế ; chỉ đáng vứt nó vào đống rác thôi. Siêu bèn nắm lấy hai tay chị Bốn, hăm doạ :
- Mèo ăn hết cá, bà ngầy mặc chị, em không coi đâu, chị ở nhà đó, em không coi đâu !
Lên đầu trang