Sư già chùa Thắm
và ông đại tá về hưu
1.
Khoảng năm 1980, một vị hoà thượng
đang tu tại một chùa lớn ở thành phố Hồ Chí
Minh bỗng nhiên trở ra Bắc về trông nom chùa
Thắm, là một ngôi chùa vô danh thuộc một xã vô
danh gần thị xã Hà Ðông. Các cụ trong làng có
cho đám con cháu làm việc ở uỷ ban biết vị sư
này là cháu gọi cụ tổ chùa Thắm là bác ruột,
được sư tổ đem về nuôi tưa năm lên mười
tuổi, rồi làm tiểu chùa cho tới lúc lên sư bác
mới vào Huế tu học ở chùa Bảo Quốc. Nghe nói sư
già cũng là người tài giỏi, đã từng ở trong
ban thứ ký Hội tăng già Việt Nam và Viện Tăng
Thống, là một nhân vật cũng được nhắc nhở
nhiều trong cuộc đấu tranh của giới phật giáo
chống chính quyền Ngô Ðình Diệm. ấy là chuyện
trước đây, mà cũng là nghe nói thế, còn bây
giờ nhà sư đã ngoài bảy chục tuổi, người gầy
nhỏ, mặc bộ quần áo vải nâu, đi đôi guốc mộc,
lúi húi ngày hai buổi giữa các luống rau ở sân
trước và vườn sau chùa như một ông lão cả
đời chưa từng bước ra khỏi làng.
Chùa rất rộng nhưng chỉ có
một già một trẻ, một sư cụ và một chú tiểu
khoảng chừng mười bốn mười lăm tuổi gọi là
chú Minh. Tuần rằm mồng một đã có các bà qui y
của Phật tới quét dọn Tam Bảo, đồ xôi, đóng
oản, hương hoa cùng với chủ tiểu. Còn những lễ
xin cầu phúc cho người sống, giải nghiệp cho
người chết, là những dịp nhà chùa kiếm rất lắm
tiền, thì sư già đều nhã nhặn từ chối. Thầy
trò chỉ sống bằng tiền hoa lợi nửa sào vườn và
vài chục gốc cây ăn quả. Sư cụ vẫn nói, nhà
chùa chỉ phải chi có hai khoản tiền, đèn nhang
thờ Phật và gạo muối nuôi hai người. Ma hai thày
trò cũng chỉ ăn một ngày một bữa vào đúng
ngọ, vẫn còn dư tiền để hoằng pháp độ sinh.
Chùa làng đã vắng, lại không có đức ông
thiêng, cũng không có con công đệ tử tới hầu
bóng ở điện Mẫu nên cũng vắng. Ði ngoài ngõ
xóm không biết bên trong là chùa. Không có cổng
tam quan, chỉ có một cái cổng gỗ hẹp mở giữa
một lớp rào ô rô. Qua cổng ngoài là sân trước
chùa lại có một lớp tường thấp bao trong nối
liền với mặt tiền của năm gian chánh điện. Sân
trong là một khu nhà xây đối nhau, mái thấp,
hiên rộng, che ngoài bằng những tấm giại đan
thưa, là nơi thờ Mẫu, thờ Tổ, thờ các Hậu,
cũng là nơi tiếp khách và ăn ở của vị sư trụ
trì cùng đệ tử.
Thời tiết lúc này là đầu
đông, sư già đang thụ trai bữa chính ngọ. Mâm
cơm đặt trên cái chõng tre kê sát tấm giại ở
một đầu hiên. Mâm gỗ sơn, liễn đựng cơm cũng
bằng gỗ sơn có nắp đậy, bát đĩa bằng thứ men
xấu kẻ chỉ xanh, một bát canh, vài cọng rau bí
luộc, một chén tương, một đĩa vừng. Nhà sư
ngồi xếp chân vòng tròn, cái áo cánh bông mở
khuy, đầu đội mũ
len nâu, da thịt nhăn nheo khô héo. Trời nắng
hanh, thứ nắng của mùa rét, quánh đượm như có
mùi thơm và vị ngọt của mật. Trong bóng râm của
mái hiên lối cửa ngách lên chánh điện, một con
chó có bộ lông xù màu vàng bẩn nằm kê mõm lên
hai chân trước, nửa ngủ nửa thức rình đuổi bầy
chim sẻ xuống mổ thóc nếp phơi ở một góc sân.
Ðã nhiều năm sư già phải
tu ở một miền đất chỉ có hai mùa mưa và nắng
nên mỗi dịp cuối năm lại nôn nao nhớ đến cái
rét hanh se, nhớ màn sương mù, nhớ cả những
ngày mưa dầm, thục bàn chân trong bùn lạnh gánh
rau ra chợ bán. Nhớ cả gắp rau su hào mềm ngọt
kho tương, khoanh củ cải bổ tư luộc lên màu
trắng như ngọc, cái mâm gỗ tróc sơn, cái bát
ăn cơm mem vàng nứt rạn. Nhớ bụi thanh trà ở
một mé ao, nhớ cụm hoa mộc ở điện thờ đức
ông, cái bể cao một đầu một với hứng nước mưa
mùa hạ, tiếng gà gáy giữa trưa, tiếng chuông thu
không mênh màng lúc chiều tối.
Ðã dăm năm nay nhà sư về
tu ở chùa cũ mà niềm vui được trở lại đất tổ
vẫn chưa phai. Những người quen biết cũ hầu như
không còn ai nhưng chùa cũ vẫn còn, vườn xưa
vẫn còn, bụi thanh trà, cụm hoa mộc, cây muỗm sau
chùa vẫn còn. Một thời rất bình yên vẫn chưa
mất hết mọi dấu vết. Ðã đi tu là biết thân và
cảnh, sống và chết, ta và người, tất cả chỉ là
hoa trong gương, trăng dưới nước, không có gì
là chắc "có" cả. Mà vẫn là có. Những
kỷ niệm của một thời mới nhập đạo đầu đã bị
năm tháng mài mòn vẫn giữ nguyên hương vị của
ngày xưa mỗi lần chợt nhớ tới. Có lần nói
chuyện với người quản sự của chùa vốn là con
trai một người bạn thuở ấu thơ, sư già bảo:
"một đời tu, tôi đã thoát khỏi mọi ràng
buộc, mọi chấp trước, xem vạn sự chỉ là một
tuồng huyễn hoá để giữ tâm luôn luôn an tỉnh.
Chỉ duy những năm đầu hầu tổ ở chùa này là
không bao giờ có thể quên nổi. Ðêm ngày chỉ lo
lúc chuyển nghiệp vẫn không được trở lại chùa
cũ. Cái sầu não ấy là tự tôi chuốc lấy, tôi
tự không muốn rời bỏ". Thật ra cũng còn một
lý do khác nữa khiến sư già năn nỉ với giáo
hội xin được trở vể tu ở chùa cũ. Cái lý do
ấy nhà sư mới chỉ thổ lộ cho có một người
được biết. Người ấy đã được cụ đối đãi
như bạn tri kỷ.
Người bạn tri kỷ của sư
già chùa Thắm là một đại tá về hưu. Ông ở
với con gái và đứa cháu ngoại tại ngôi nhà
cuối phố huyện từ năm 82 do con gái ông mua lại
của một gia đinh rời vào Nam sinh sống. Nhà làm
theo kiểu kiên cố nhưng vườn rộng, có nhiều cây
ăn quả, có giếng, có bể xây, nhìn vào xanh ngắt
mát rợp. Năm đầu ông mua gỗ đã xẻ về đóng
bàn, đóng tủ, đóng giường hì hụi từ sáng
đến tối. Năm sau hết việc, buồn quá, ông mở
cổng bàn trà chén, bánh kẹo, thuốc lá từ mờ
sớm tới quá trưa thì nghỉ. Vườn mát, người
bán hàng lịch lãm và vui chuyện nên rất đông
khách, khách vãng lai có ít, còn hầu hết là
khách quen, là anh em cán bộ, công nhân viên mấy
cơ quan xí nghiệp quanh huyện. Một ông già đã
sáu mươi hai tuổi, đã về hưu lại có sức hấp
dẫn với đám thanh niên, là khách uống nước mỗi
ngày cũng là chuyện lạ. Ông trở thành cố vấn
cho họ nhiều chuyện rất riêng tư, theo ông thì
việc dữ hoá lành, làm ngược lại mọi sự còn bê
bối hơn trước. Ông chỉ khuyên những người đến
vẫn kể rằng họ cần nhẫn nại một chút, cần nhân
nhượng một chút và không được xem một ai là
xấu xa hoàn toàn. Người xấu nhất vẫn còn nhất
điểm lương tâm, hay bền bỉ tấn công vào đó,
rồi thì anh sẽ được thêm một người bạn. Ông
là một người rất cởi mở nhưng vẫn có một chút
gì bí mật, không thể hiểu nên đã tạo ra vẻ
quyến rũ riêng đối với đám trẻ vốn thích
được chiêm ngưỡng mọi sự bí mật.
Nhưng có một lần cái thân
phận hơi huyền bí của vị đại tá về hưu tình
cờ bị tiết lộ, cũng chỉ là hé mở chút ít đủ
để người phố huyện có chuyện rì rầm bàn tán
thôi. Bữa đó vào khoảng xế trưa, đã gần tới
giờ ông chủ quán dọn hàng đóng cửa nghỉ thì
một chiếc xe con quân sự đỗ bên kia đường và
một nhóm sĩ quan quân đội nhảy ào xuống đi
thẳng vào quán nước. Người đi đầu là một
đại tá còn trẻ đứng sững nhìn ông già đáng
rót nước ra chén mới khách, rồi kêu lên, giọng
Sài Gòn:
- Anh Hai, bọn em đến thăm anh đây!
Ông Hai ngẩng mặt nhìn lên rồi đứng vụt dậy:
- ỦA, MÀY RA ĐÂY HỒI NÀO?
Giọng ông khác hẳn ngày thường, nửa Nam nửa
Bắc. Rồi ông lật đật kéo bàn kéo ghế mời
khách, mắt vẫn nhìn chăm chú từng người một.
- Ờ, TỤI BAY HẸN NHAU TỚI ĐÂY HẾT MỘT
lượt, hả?
Bốn người đã ngồi nhưng người mang quân hàm
đại tá vẫn đứng, vẻ mặt cau có:
- Dân Sài Gòn mà lại ra đây ngồi bán quán, hả?
Nghĩ sao mà anh làm thế, kỳ cục hết nói.
Ông Hai đưa nhanh ngón tay
chấm vội một giọt nước đọng ở khoé mắt, rót
nước ra các chén nhỏ, cười gượng gạo:
- Chỗ này không có đá nên không có trà đá,
mấy em uống tạm trà nóng vậy. Họ nói với nhau
những gì đó rồi nghe ông Hai nói:
- Một đời mình sống vì đồng đội, bây giờ còn
mấy năm cuối phải dành cho con nhỏ với thằng
cháu ngoại thôi. Các cậu thông cảm đi.
Một người nào đó nói to:
- Bọn tôi mời anh vô trong ấy về hưu cùng với
con anh, cháu anh để anh em cũ có điều kiện chăm
sóc, giúp đỡ. Ðó là quyết định của anh em
biệt động Thành. Bây giờ anh tính sao?
Ông Hai vẫn nhăn nhó:
- Cảm ơn anh em nhiều, nhưng cái Thoa đâu có
chịu vô. Nó sợ gặp thằng chồng cũ đang sống
với con vợ mới thì nó không chịu nổi. Tình cảm
bọn nó bây giờ phức tạp lắm, mấy ông ơi.
Ngày hôm sau bọn họ lại
đến những hai xe, khoảng mười người, ăn chơi
một ngày ở nhà ông Hai, gần tối mới ra về! Mấy
người quen tới uống nước hỏi dò ông già:
- Nghe nói bác sắp vào ở trong Sài Gòn phải
không?
Ông già cười mủm mỉm:
- Ðến tuổi tôi chả còn muốn đi đâu nữa. Ðây
là chỗ ở sau cùng.
Một chàng trẻ tuổi nói đùa:
- Nếu con được là con trai bố nhỉ. Con sẽ cõng
bố đi bộ vào tận Sài Gòn ngay lập tức. Trong ấy
là nước Mỹ nội địa đấy bố ạ.
Quả nhiên ông không đi đâu
thật, vẫn ngày ngày bán nước trà chén cho đám
khách quen thuộc cùng phố huyện. Nhưng khách hàng
nói năng với ông có vẻ kính trọng hơn, dè dặt
hơn và hay nhìn trộm ông như một nhân vật khác
thường. Vì ông là dân Bắc nhưng lại đánh Mỹ
bao nhiêu năm tận trong hang ổ của chúng là Sài
Gòn, là người Sài Gòn, chỉ huy anh em biệt động
của Sài Gòn, là thứ dữ nay đã rửa tay gác
kiếm.
Sư gia chùa Thắm và ông
đại tá về hưu quen biết nhau cũng rất tình cờ.
Cách đây đã hai năm ông Hai có việc phải đi
thăm một người bạn cùng chiến đấu ở trong Nam
rồi về nghỉ hưu ở Hải Phòng và ở lại chơi với
bạn gần một tháng. ở nhà thằng cháu ngoại lại
lên cơn sốt co giật. Nó vốn hay đau yếu từ lúc
mới sinh, tây y gọi là suy dinh dưỡng, đông y
gọi là bệnh mạn tỳ phong, ra vào bệnh viện đã
nhiều lần mà bệnh vẫn không dứt. Bà hàng xóm ở
kế cạnh liền bảo nên đến xin đơn thuốc của sư
cụ chùa Thắm chắc chắn là khỏi hẳn. Bà vốn là
cán bộ phụ nữ huyện, về hưu lại thành bà vãi
chùa chuyên làm các việc công đức từ thiện. Tự
bà đến chùa kể bệnh xin đơn về cân thuốc, sắc
thuốc cho thằng bé. Nó uống có ba thang mọi chứng
bệnh từ nhỏ coi như dứt hẳn. Lại uống thêm ba
tháng bổ nữa thằng bé đã thành một đứa trẻ
khác, lên cân từng tuần, chạy nhảy nô đùa
đúng với lứa tuổi. Ông Hai về nhìn thấy cháu
lấy làm kinh ngạc, cây một cành, cành một quả
nên mẹ con nó vui và khoẻ là hạnh phúc lớn nhất
của đời ông lúc đã già. Và lập tức ông nhảy
ra Hà nội mua trà, mua bánh đậu chay thuộc loại
cực ngon rôi đạp xe tới chùa để có lời cảm ơn
sư già đã đem lại bao nhiêu phúc đức cho gia
đình ông. Nhà sư nhận quà biếu rất tự nhiên
rồi tủm tỉm cười, hỏi: "ông đem quà cho
trò mà không biện lễ dâng thầy à?" Ông hai
ngồi ngẩn ra rồi nói lẩm bẩm: "Bạch cụ còn
vị nào nữa ạ?". Nhà sư lại cười: "Tôi
là đệ tử của Phật thì có trà có bánh còn
hương hoa cúng Phật thì đâu?". Chết tôi
rồi! Ông Hai không hề nghĩ một lần nào đến
chùa thì phải mua nhang cúng Phật. Không thể bảo
là quên mà là chưa nghĩ tới. Ông lên cúng Phật
bằng nhang của nhà chùa rồi cứ cười mình mãi,
nhà sư cũng cười và họ cảm thấy như đã rất
thân nhau.
Cách mươi ngày sau, ông Hai
có việc lên thị xã Hà Ðông lúc trở bề lại rẽ
vào chùa thăm sư cụ. Các vãi đang bao tượng và
quét dọn điện thờ Mẫu. Sư già cũng đứng ở
đó gặp ông Hai có vẻ mừng rồi nói ngay:
"Chùa này tuy không có tiếng tăm gì trong
tỉnh nhưng bộ tượng gỗ sơn Tam Toà Thành Mẫu ở
đây thì chắc là duy nhất". Sư già cho biết
là pho tượng mẫu Liễu Hạnh, mẫu Thượng Ngàn,
mãu Thoải là do dòng họ Nguyễn Ðức của tỉnh Hà
Ðông chạm khắc. Một nghệ nhân trong đám con
cháu của họ ấy tên là Nguyễn Ðức Thống đã
chạm khắc một bộ bà tượng gỗ nổi tiếng khắp
vùng Sài Gòn - Gia Ðịnh. Ðó là tượng Bốn sư
thuyết pháp, tượng Ðại Tạng và tượng Quan Âm
nghìn tay nghìn mắt ở chùa Phước Hoà thuộc
đường Bàn Cờ của thành phố Hồ Chí Minh. Ông
Hai hỏi:
- Bạch cụ, cụ vào thăm các chùa trong miền Nam
vào dịp nào?
Sư già cười:
- Tôi vào tu trong đó từ năm còn bé tới lúc
đã già mới ra chùa ngoài này, tính ra vừa
được bốn mươi lăm năm.
Ông Hai lại hỏi:
- Năm 63 cụ tu ở chùa nào?
- Chùa ấn Quang
Ông Hai giương mắt nhìn trừng trừng sư già rồi
kêu nhỏ:
- Bạch cụ, tôi nhớ ra rồi, tôi đã được gặp
cụ một lần cùng với cụ Thiện Ðạo trong buổi
họp báo vào đầu tháng 8 năm 63 tại chùa ấn
Quang.
Ðến lượt sư già nhìn chăm
chú ông đại tá đã về hưu, ông ta là ai nhỉ
mà có mặt ở Sài Gòn đúng cái năm 63 không thể
quên. Ông Hai nói:
- Tôi là cán bộ quân báo của Mặt trận vào hoạt
động nội thành Sài Gòn - Gia Ðịnh từ năm 62.
Năm 81 lại trở ra Bắc. Tôi sống ở trong ấy cũng
được hai chục năm nhưng mới chỉ là non nửa
thời gian so với cụ.
Nét mặt sư già bừng sáng, cụ chắp tay niệm:
- A di đà phật, tôi với ông vậy là cũng có
chút nhân duyện, dẫu giả tạm nhưng vẫn vui mừng
lắm.
Một nhà sư và một ông đại
tá kết bạn với nhau đã được gần hai năm, càng
trò chuyện càng thấy tiếc đã gặp nhau quá muộn,
dẫu rằng họ rất khác nhau trong niềm tin, trong sự
từng trải và cả trong nhiều sở thích riêng. Chắc
hẳn họ đã tìm được ở nhau một sự đồng cảm
khác thường có thế bỏ qua mọi cách biệt xét cho
cùng cũng chỉ là tiểu tiết.
2
Chỉ tới khi ấy sư già mới thuật lại cho ông
đại tá nghe về những sự kiện đã làm thay đổi
đời tu của mình, tức là cuộc đối đầu của
giới phật giáo miền Nam với chính quyền Ngô
Ðình Diệm cùng những hệ quả sâu xa của nó. Sư
già kể;
"Chính quyền Ngô Ðình Diệm phạm những sai
lầm trong việc cai trị và một sai lầm hết sức ấu
trĩ là xoá bỏ tự do tín ngưỡng, độc tôn một
tôn giáo, độc tôn một niềm tin. Họ xem Thiên
Chúa giáo là một giáo hội, còn Phật giáo chỉ
là một hiệp hội. Họ nhầm to, Phật giáo là một
église; một giáo hội, có thời còn là quốc giáo
của dân tộc mình chứ không phải là một
association privée, một hiệp hội tư nhân. Ông
đừng ngạc nhiên khi tôi nói được tiếng Pháp.
Lúc nhỏ tôi theo hầu tổ thì học Hán Nôm để
đọc kinh Phật và sách thuốc, vào trong Nam thì
học thêm văn hoá để có bằng tú tài rồi lại
học tiếng Pháp ngữ và Anh ngữ. Thời thế nó đòi
hỏi phải học để khỏi bị đồng đạo và phật tử
khinh lờn. Ðã đi tu còn để lòng gợn sóng là
như thế, nhưng thôi, cái chuyện này ta sẽ nói
sau. Vì tôi nói và viết thông thạo hai ngoại ngữ
này nên tôi được chứng kiến nhiều chuyện kín
mật của năm 63. Cuộc đấu tranh của giới phật
giáo bắt đầu từ ngày lễ Phật đản ở Huế do
tỉnh trưởng Thừa thiên ra lệnh cấm treo cờ phật
giáo trong ngày đại lễ. Sáng ngày 8 thàng 5, tại
chùa Từ Ðàm, thấy Trí Quang kêu gọi phật tử
đấu tranh cho quyền bình đẳng tôn giáo. Tối
ngày 8 thàng 5 chính quyền Thừa thiên cho xe tăng
tới bao vây đài phát thanh Huế và cho lính ném
lựu đạn vào đám thanh niên phật tử làm tám
người bị thiệt mạng. Ngày 10 tháng 5 các vị
lãnh đạo Phật giáo họp tại chùa Từ Ðàm, ra
tuyên bố 5 điểm. Giới phật giáo Sài Gòn cũng
quyết định tổ chức rước linh cầu siêu những
người từ nạn để biểu thị sự bất bình của
toàn xã hội đối với hành động khủng bố của
người cầm quyền. Ðêm trước ngày rước linh,
ông Diệm có cử Quách Tòng Ðức là đổng lý văn
phòng phủ tổng thống và Nguyễn Phú Hải là đô
trưởng Sài Gòn - Chợ Lớn tới gặp cụ viện chủ
chùa ấn Quang. Cụ viện chủ không tiếp mà cử
thượng toạ Thiện Ðạo và tôi ra thay mặt. Cuộc
hội đàm kéo dài từ 5 giờ chiều tới 1 giờ đêm
không đi đến một thoả thuận nào. Chúng tôi vẫn
quyết định rước linh từ chùa ấn Quang là trụ
sở trung ương của Giáo hội Tăng già Nam Việt
đến chùa Xá Lợi là trụ sở trung ương của Tổng
hội Phật giáo Việt Nam. Trong vòng 49 ngày, cứ 7
ngày lại có một lần rước linh để cầu siêu
khắp các chùa lớn trong thành phố. Ði bằng xe
đò, xe tăng riêng, xe ni riêng, mỗi xe chở từ sau
mươi đến tám mươi vị.
Mỗi lần đi là tám xe, mỗi xe đều có cắm một
lá cờ phật giáo. Cũng trong dịp này được hội
chủ là hoà thượng Thích Tịnh Khiết từ Huế gửi
thư cho tăng ni toàn quốc yêu cầu tuyệt thực 48
giờ. Thư của ngài do các quân nhân phật tử trong
quân đội chuyển đi khắp các chùa. Ngay trong
những ngày đấu tranh sôi nổi đó thầy Thiện
Ðạo và tôi đã tính nếu kéo dài các cuộc
rước linh và tuyệt thực một cách nhàm chán thì
phong trào đấu tranh tự nó cũng sẽ bị xẹp vì
thiếu những hình thức mới mẻ, gây xúc động
mạnh nuôi dưỡng. Trong ngày đầu tuyệt thực ở
chùa Xá Lợi có một vị hoà thượng tu ở chùa
Quan Âm bên Gia Ðịnh, pháp danh là Thích Quảng
Ðức gặp thầy Thiện Ðạo và tôi để phái bảo
vệ Phật giáo. Trong thư cụ Thích Quảng Ðức xin
phát nguyện tự thiêu, làm ngọn đuốc sống để
bảo về Phật pháp. Mười ngày sau, nhằm ngày 9
tháng 6, khi bàn tới những hình thức đấu tranh
tiếp theo chúng tôi mới chợt nhớ tới lá thư nọ.
Nhưng lời phát nguyện tự thiêu của cụ có thật
không, có thay đổi gì không, vì chuyện sống
chết cho một niềm tin nói thì dễ, hành động
trong tức thời cũng dễ nhưng để chậm lại, có
thời gian ngẫm nghĩ nhiều về cái chết có khi lại
phân tâm. Nên thầy Thiện Ðạo và tôi phải sang
bên Gia Ðịnh gặp cụ. Ðến chùa Quan Âm mới hay
cụ đi vắng. Thầy Thích Thông Bửu là đệ tử có
nói cụ xuống chùa ấn Quang để tụng kinh Pháp
Hoa. Lại trở về ấn Quang xin gặp cụ. Thầy Thiện
Ðạo bạch :"Bạch hoà thượng từ mẫn, trước
kia hoà thượng có gửi thư phát nguyện xin được
sử dụng nhục thân làm ngọn đuốc sáng rọi vào
thế lực vô minh. Chúng con đại diện cho uỷ ban
liên phái xin cúi mình được nghe một lần nữa
tâm nguyện của hoà thường đấu tranh cho tiền
đồ của Phật Pháp:. Cụ Quảng Ðức đang ngồi
kiết già trên giường, nghe thầy Thiện Ðạo nói
xong nét mặt cụ rạng rỡ đầy vẻ hoan hỉ, cụ
chắp tay niệm: "Nam mô a di đà phật, vậy là
con được toại nguyện rồi". Rồi cụ nói
thêm: "Cho làm đi thôi. Xin thượng toạ cho
tôi được gửi lời chào các vị lãnh đạo của
uỷ ban liên phái và xin cảm ơn chư vị:. Nói rồi
hoà thượng nhắm mắt lại, nét mặt thanh thản hầu
như không còn để ý đến câu chuyện hệ trọng
vừa rồi. Từ lúc này là công việc của ban tổ
chức,
những công việc rất trần tục của những bộ óc
minh mẫn: quỉ quái và thủ đoạn để giữ bí mật,
để lường tính mọi việc trong mọi tình huống,
để quyết một trận sống mái với kẻ thù. Ngồi
nghe đồng đạo bàn tính, tự mình cũng tham gia
bàn tính mà thầy ghê sợ thay cho cái phần tăm
tối còn lại của người xuất gia. Chỉ có một
điều có thể biện minh: nếu không có chước ma
làm sao trừ được ác quỉ, nếu quá trong sáng,
quá thơ ngây, quá nhu thuận tàn bạo, phi luận.
Cái mục tiêu cao quí đã buộc chúng tôi phải
dấn thân vào trọc thế. Ðã dấn thân vào rồi
liệu có tự kéo được mình ra không , cái điều
đó tôi sẽ nói sau. Theo lịch rước linh thì ngày
11 tháng 6 chư tăng ni sẽ tập trung làm lễ cầu
xiêu tại chùa Phật Bửu Tự ở đường Cao Thắng.
Tức là sẽ có một quãng đường có thể đi bộ
từ chùa Phật Bửu Tự đến chùa Xá Lợi. Trong
khoảng ấy chúng tôi đã tìm ra một địa điểm
tự nhiên rất xứng với công cuộc chuẩn bị. Ðó
là ngã tư Phan Ðình Phùng - Lê văn Duyệt ngay
trước toà đại sứ Cao Mên. Cách đi của hàng
vạn tăng ni sẽ có một tổ thức riêng hướng dẫn.
Sẽ có khối cầu nguyện, khối đọc to năm nguyện
vọng của giới phật giáo, những khẩu hiệu cần
trưng lên và cả lực lượng bảo vệ nếu xả ra có
sự đụng độ với cảnh sát dã chiến. Cũng trong
cuộc họp ấy chúng tôi đã thông qua lời hiệu
triệu của hoà thượng hội chủ Tổng hội phật
giáo Việt Nam, lời tuyên bố của ủy ban Liên phái
Bảo vệ Phật giáo, cách trả lời của các vị có
trách nhiệm với các hãng thông tấn và báo chí
trong và ngoài nước. Sau cuộc họp tôi chạy đi
tìm đại đức quản lý nhà in Sen Vàng, yêu cầu
đại đức phát tâm mua cho hai mươi lít xăng đổ
xe để ngày mai rước các hoà thượng đi cầu
siêu. Xe sẽ là chiếc Austin của ông Trần Quang
Thuận, một phật tử hiện đi học lợp động viên
sĩ quan ở Thủ Ðức, gửi xe lại chùa ấn Quang, có
người lái sẵn. Lại gặp người lái xe để dặn
việc sáng sớm mai đưa xe rước mấy hoà thượng
từ ấn Quang đến Phật Bửu Tự. Anh lái xe hỏi:
"Mai vị nào đi?". Tôi trả lời:
"Chưa rõ, vị nào già không đi bộ được
mời ngồi xe". Lại dặn thêm: "Lúc lái xe
cứ theo chư tăng, bảo dừng là dừng, bảo đi là
đi, không vượt quá cũng không lùi sau".
Thầy Thiện Ðạo trong tối đó cũng điện thoại
cho các hãng thông tấn AFP, UP, AP, REUTER, nói với
những người phụ trách sáng mai cho phóng viên
mang theo máy quay phim tới địa điểm đã chỉ
định, sẽ có chuyện rất hay, chuyện không bình
thường xảy ra. Sau lễ cầu siêu ở Phật Bửu Tự,
tôi nói trước máy phóng thanh. "Kính thỉnh
chư tôn hoà thượng, thượng toạ, đại đức,
tăng ni hoan hỉ trở về chùa Xá Lợi để bàn phật
sự cần gấp. Xin chư vị đi bộ, sẽ có người
hướng dẫn". Tăng đi một hàng riêng, ni đi
một hàng riêng, hai hàng song song chiếm một nửa
đường, xe rước hoà thượng Thích Quảng Ðức đi
giữa. Ngồi sát cạnh cụ Quang Ðức là đại đức
Chần Ngữ, đại đức Chân Minh thì ngồi cạnh
người lái xe. Tới gần ngã tư Lê Văn Duyệt -
Phan Ðình Phùng thì xe dừng như bị hỏng máy,
thầy Chân Ngữ mở bình xăng tưới lên người cụ
Ðức. Cụ vẫn ngồi yên lặng, mặt không biến sắc,
miệng niệm phật, đợi xăng tẩm ướt toàn thân
mới bước xuống xe cùng các thầy Chân Ngữ và
Chân Minh. Ban tổ chức đã yêu cầu tăng ni ngồi
thành một vòng tròn rộng, sắp xếp thành nhiều
lớp đợi hoà thượng tiến vào. Cụ bước đi uy
nghi, thanh thoát như bước trên tấm thảm trải sen
vàng, rồi ngồi vào giữa vòng theo tư thê kiết
già. Thầy Chân Ngữ lại xách bình xăng đổ cho
hết phần xăng còn lại. Cụ Ðức vẫn ngồi im như
đã thành thạch tượng, miệng hơi mỉm cười, một
bàn tay dựng thẳng trước ngực như một nửa búp
sen, tay kia quẹt máy. Nhưng cái quẹt bị ngộp
xăng nên không cháy thầy Chần Minh vội chạy tới
đưa cái quẹt khác. Hoà thượng vẫn ngồi thẳng,
mắt mở to, nhưng cái nhìn đã thuộc về một thế
giới xa xăm nào đó rồi cụ bật quẹt lần thứ
hai. Ngay lập tức một khối lửa bùng lên, là một
núi lửa bốc cao mãi, qua ánh lửa vàng hoà
thượng vẫn trụ thiền kiên định, hai tay chắp
trước ngực, hình ảnh sau cùng của vị phật sống
trong tiếng niệm phật của hàng vạn tăng ni và
phật tử. Có bài kệ rằng:
Thập
phương thế giới trung
Thiên thần cúng đường Phật
Thành tựu đệ nhất Pháp
Duy hữu Việt Nam Tăng,"
3
Sư gia kể tiếp:
"Kim thân bồ tát Quảng Ðức được gói trong
áo cà sa đặt lên ba lá cờ phật giáo trải rộng
rước về chúa Xá Lợi. Ði theo nắm tro thiêng
liêng của bậc chân sư tôi đã nghĩ tới sự sống
lại của Phật giáo như một quốc đạo trong toàn
cõi Việt Nam bởi những tấm gương của nhiều tu
sĩ dám xả thân cho sự trường tồn của dân tộc,
của Phật pháp. Vậy mà hoá ra không phải. Tháng 5
hy vọng bao nhiêu đến tháng 8 lại thất vọng bấy
nhiêu. Ðêm 20 rạng sáng ngày 21 tháng 8, chính
quyền Diệm mở cuộc tổng bố ráp khắp các chùa
chiền trong phạm vi Sài Gòn - Gia Ðịnh. Các sư
đều bị bắt giữ, kể cả hoà thượng hội chủ,
các vị lãnh đạo trong uỷ ban liên phái bảo vệ
Phật giáo, các giám viện các chùa lớn, ai trốn
được thì trốn còn đều bị tống lên xe cảnh
sát. Hoà thượng hội chủ được đưa vào bệnh
viện Grall. Một số vị khác vào trại Bạch Ðằng
là trụ sở cơ quan tình báo. Một số đến trại
Lê Văn Duyệt của công an, số đông phải đi Rạch
Cát. Tôi xin nói thêm, chuyện bố ráp này tôi và
thầy Thiện Ðạo đã được Halberstam, một nhà
bào Mỹ, cho biết từ lúc tối. Tôi đã bạch lại
với các vị lãnh đạo uỷ ban liên phái đang có
mặt tại chùa Xá Lợi để tìm cách hoá giải.
Thượng thoạ Quảng Viên vừa từ ngoài Huế vào,
là chiến lược gia của phong trào, bảo:
"Chẳng phải chạy đâu hết, cứ cho họ đến
bắt, bắt hết càng hay, giết cũng được. Họ có
giỏi thì cứ làm". Lời nói quả quyết và
bình thản ấy khiến chúng tôi vững tâm rất
nhiều. Nhưng trong số các sư bị bắt ở Xá lợi
lại không có thượng toạ Quảng Viên. Ông ta đã
trốn ở đâu? Mãi về sau mới được biết, ông
Viên đã cạo lông mày, quấn y vàng như các sư
Nam Tông, đứng lẫn trong đám tăng Nam Tông và
được đừa vê Rạch Cát là nơi tạm giam những
kẻ vô danh. Ông ở lại đó vài ngày rồi được
tha, liền về Sài Gòn vào toà đại sứ Mỹ gặp
Ingram là cố vấn chính trị xin được tá túc ở
trong toà đại sứ. "Nắm tro của cụ Quảng
Ðức chưa kịp nguội, trái tim của cụ còn đỏ
tươi nhưng lập trường của mấy người lãnh đạo
giáo hội sau vụ bắt bớ đã thay đổi hoàn toàn
để làm vừa lòng kẻ cầm quyền, để thoát thân,
để không bị mất thêm những cái đã có. Ngày 25
tháng 8, hoà thượng hội chủ Tổng hội phật giáo
Việt Nam kiêm lãnh đạo tối cao Uỷ ban liên phái
bảo vệ Phật giáo ra lời hiệu triệu kêu gọi chư
tăng ni, phật tử toàn quốc tin tưởng vào phương
pháp hoà giải của giáo hội và sự lãnh đạo bao
dung sáng suốt của tổng thồng Việt Nam cộng hoà,
gạt bỏ nghi nan hiểu lầm do sự kích động vượt
ngoài phạm vi đạo đức. Tiếp đến kiến nghị của
năm vị thương toạ Phật giáo Trung phần, xác
nhận trong chế độ cộng hoà nhân vị do tổng
thống Ngô Ðình Diệm lãnh đạo, Phật giáo được
tuỳ duyên phát triển, tự do tín ngưỡng và hành
đạo. Lại xác nhận năm nguyện vọng của Phật
giáo đã được tổng thổng thực thi với tinh thần
hoà giải tột bực. Rồi yêu cầu chính phủ nghiêm
khắc đối với những người đã lợi dụng cuộc
đấu tranh thuần tuý phật giáo và mục đích
chính trị. Cuối cùng là cả năm vị đồng thanh ca
ngợi Ngô tổng thống là vị lãnh đạo anh minh,
đầy đủ đức độ, chủ trương tự do tín
ngưỡng. Rồi lại đến lời tuyên bố của vị phó
chủ tịch Uỷ ban Liên phái bảo vệ Phật giáo. Ông
nói trong những ngày đầu của cuộc vận động cho
năm nguyên vọng là nằm trong giáo lý nên ông
đã tham gia uỷ ban liên phái vỡi chức phó chủ
tịch thứ ba. Bới ý chí ôn hoà tột bực của Tổng
thống và chính phủ, thông cáo chung đã được
ký kết, những nguyện vọng chính đáng của Phật
giáo đã được hoàn toàn thoả mãn. Nhưng sau
đó cuộc đấu tranh đã ngày càng đi xa phạm vi
giáo lý và pháp lý và còn có tính cách quá
khích. Vì vậy ông đã dự định rút khỏi uỷ ban
liên phái nhưng do sự khống chế của một số
người trong uỷ ban nên không thực hiện được.
Ông tuyên bố: Nay tôi xin tuyên bố rút khỏi uỷ
ban liên phải để trở về với nhiệm vụ tu hành
thuần tuý theo chánh đạo. Thượng toạ Thích Tâm
Châu cũng ra tuyên bố lên án một số người trong
uỷ ban liên phái đã cùng với những số phần tử,
những tổ chức phản động trong nước và bọn
phiêu lưu quốc tế âm mưu lợi dụng cuộc tranh
đấu của phật giáo để lật đổ chính phủ Việt
Nam cộng hoà. Và ông dõng dạc tuyên bố cùng
quốc dân, kể từ ngày 20 tháng 8 ông tự coi đã
hết nhiệm vụ của chức chủ tịch uỷ ban liên phái
bảo vệ phật giáo. Ông lại nói thêm tuy bị tạm
giữ nhưng ông vẫn bình yên và luôn luôn được
chính phủ biệt đãi.
"Nhớ lại thế thôi chứ chẳng có gì làm lạ.
Cái thân ngũ uẩn được thế giàn nâng niu, chiều
chuộng đã lâu làm sao nhất đán đám buông bỏ
để hiến trọn vẹn cho Phật pháp. Chúng ta đều
là người của thế gian nên biết rất rõ những
trói buộc của thế gian. Không phải ai ai cũng là
cụ Thích Quảng Ðức cả. Có điều những ông thầy
chùa bạc nhược và háo danh ấy sau ngày 1 tháng
11 đều tự vỗ ngực hét to rằng chính họ là kẻ
đã đào mồ chôn chế độ cũ, là ân nhân của
chế độ mới, đều là những anh hùng cứu nước
cứu đạo. Kiêu binh đã khó chịu, kiêu tăng vừa
khó chịu vừa buồn cười. Thiên hạ họ cũng cười
cả đấy, có điều họ không cười to thôi. Lúc
này công thành thân thoái là đẹp nhất, việc
đời cũng đẹp, việc đạo cũng đẹp. Khốn nỗi
mấy ông thầy chùa đã từng được nếm thử cái
hương vị ngây ngất của âm mưu và quyền lực
nên bỏ không nổi. Huống hồ thắng lợi của đám
quân nhân vừa giành được lại quá lớn, không
nhảy vô cùng chia sớt thì uổng quá. Họ có phần
họ, mình phải có phần mình, cái phần của mình
là nhân cơ hội này đưa Giáo hội Phật giáo
thành một quyền lục có thể chi phối mọi quyền
lực. Các nhà sư một đời ăn chay niệm Phật chỉ
biết có hoằng pháp độ sanh bỗng chốc thành
những kiến trúc sơ của một nhà nước Phật giáo,
soạn Hiến chương Phật giáo, lập Viện Tăng
thống, Viện Hoá đạo, củng cố hệ thồng trường
Bồ Ðề, mở các nhà thương từ thiện, xây viện
cô nhi, tổ chức các hội đoàn các cư sĩ, phật
tử, có tham vọng từ đường lối chính trị của
nhà cầm quyền đến các hoạt động xã hội của
mọi tầng lớp dân chúng đều có bàn tay của giáo
hội. Các viễn cảnh phật giáo là quốc đạo,
người cầm đầu giáo hội là quốc sư, thiện
trượng có uy lực như Vượng trượng, chứng điệp
của nhà chùa có giá trị hơn mọi giấy thông
thành xem ra cũng chẳng xa xôi gì. Thật là phúc
đức! Nào ngờ trong phúc vẫn có hoạ. Cái hoạ
diệt thân lại từ lửa dục quyền lực mà sinh ra.
Vì giành giật quyền lực mà khối phật giáo thống
nhất bắt đầu nứt rạn, chia ra Việt Nam quốc tự
và Phật giáo ấn Quang. Rồi trong mỗi khối lại
chia làm nhiều bè nhòm để giành các chức vụ
then chốt cho phe nhóm mình. Các phe nhóm lúc thì
liên minh lúc thì đối đầu tuỳ theo sự bức bách
của những quyền lợi. Trường hợp của thượng toạ
Thông Trí là rất tiêu biểu. Tôi biết ông này
rất rõ vì tôi với ông là huynh đệ đồng sư
môn quen biết nhau đã mấy chục năm mà vẫn lấy
làm kinh ngạc về những thay đổi rất khó hiểu
trong những năm này. Năm 63, ông Thông Trí từ
Huế vô Sài Gòn tham gia uỷ ban liên phái. Lúc ấy
ông toàn tâm toàn ý đấu tranh cho năm nguyện
vọng của giới phật giáo không chút nhân nhượng.
Sau vụ bô ráp tháng 8 ông bị đưa đi giam giữ
tại trại Lê Văn Duyệt. ở trại về ông bảo, mình
tiến lùi không khéo để lâm vào cảnh trai có mổ
nhau ngư ông thủ lời: "Chuyện gì phải xảy ra
rồi sẽ xảy ra, chuyện gì phải đến rồi sẽ đến
mình biết trước thế nào được". Ðã bắt
đầu khó hiểu rồi... Sau ngày chế độ Diệm đổ,
giáo hội lập Viện Hoá đạo, ông Trí được bầu
làm tổng thư ký liên minh với ông Tâm Châu hợp
tác với chính quyền Nguyễn Khánh. ít lâu sau vì
quyền lợi bất đồng ông Trí lại ly khai ông Châu
cùng ông Quảng Viên, ông Ðức thiện thành lập
khối phật giáo ấn Quang đưa cụ Thiện Hoa làm
Viện trưởng Viện hoá đạo, ông Trí làm tổng
thư ký. Năm 66 sau vụ rước Phật xuống đường
bị thất bại, ông Trí chửi ông Viên là thằng
bán đạo, lẽ ra phải lấy thân che phật thì hắn
lại lấy phật che thân. Rồi họ lại làm lành với
nhau. Ðến năm 73 phe ông Viên tố cáo ông Trí
ông Thiện trên báo Sóng Thần về nhiều hành vi
vô đạo đức như đã hủ hoá với nhiều nữ phật
tử. Ðã nghĩ hai người khó mà nhìn mặt nhau cho
đến hết đời nào đè họ vẫn trở lại thân
thiết, đi đâu cũng là hai người, ngồi ăn cơm
vằng một người thì người kia chống đũa ngồi
chớ. Chắc là lại có một ký kết mới nào đó.
Kẻ đã mê say quyền lực chỉ biết do liên minh
chứ không biết tình đồng đạo càng không biết
nghĩa thầy trò. Ông Hoa Viên ông Thiện là hai
viện phó nhưng lại đang đánh nhau kịch liệt nên
cụ Thanh Tịnh là bậc trưởng thượng được bầu
làm viện trưởng. Năm 74 là năm bầu lại viện
trưởng, ông Trí muốn được thay cụ Tịnh giữ
chức ấy. Nên ông mới lập ra Tổng đoàn thanh
niên Tăng Ni Phật tử làm chỗ cho mình trong kỳ
đại hội. Nhưng cụ Tịnh vẫn được tái đắc cử
và ông Trí có thái độ rõ ràng là bất hợp
tác. Sau ngày thống nhất đất nước sự bất đồng
giữa hai người gần như công khai trước mắt tăng
chúng. Thủ đoạn của ông Trí là, cô lập cụ
viện trưởng ở cả hai phía. Với giáo hội thì
ông tung tin cụ là tay sai của Việt cộng. Với
chính quyền mới thì ông tạo ra những cơ hội
khiến họ phải nghĩ rằng cụ là người chống đối
ngầm. Ông Trí là người to mập, đi đứng khệnh
khạng, da mặt căng mỏng, lúc nào cũng cười, trò
chuyện rất bỗ bã, dung tục cứ như anh hề nên
tăng trẻ rất thích, các nữ phật tử cũng rất
quyến luyến. Ông lại có tài ăn nói, tuỳ người
tuỳ cảnh mà đổi thay. Nói chuyện với các cư sĩ
thì ông khoe: "Mấy năm rồi tuy phật sự đa
đoan, nhưng tôi vẫn đọc được nửa tạng kinh,
dịch một văn phẩm phật giáo, lại làm cả thơ
nữa". Rồi ông đọc một bài thơ mới làm,
thơ rất hay, rõ ràng là của một thiền sư đã
ngộ đạo: "Sanh tử là mộng - Niết bàn trong
ta - Trần gian không vướng - Cực lạc đâu
xa". Người như thế mà lại làm được những
câu thơ như thế, cũng lạ. Nói chuyện với những
người chưa tin vào chính sách tôn giáo của cách
mạng thì ông bảo; "Từ năm tôi đi tu tới
giờ chưa gặp được một chính quyền nào ủng hộ
phật giáo cả. Nhưng phật giáo vẫn hiện hữu. Ví
phỏng có phải cửa giáo hội thì quí vị hãy về
mở cửa giáo hội trong lòng quí vị". Nói
chuyện với đám tăng ni trẻ thì ông tuyên bố:
"Giáo hội ấn Quang còn thì tôi còn hầu hau
tiếp. Giáo hội chết thì tôi cũng quạt mồ
luôn". Gặp chuyện rắc rối mà bản thân ông
có dính líu ít nhiều, để trả lời những câu
chất vấn của phía này phía kia ông vừa cười
vừa hất tay lên: "Thôi, goodbye đời! Ai làm
gì thì làm, ai tranh đua gì thì cứ việc tranh
đua. Mình xin goodbye!". Có một lần, vào năm
78, 79 gì đó, nhân lúc ông Trí đau phải nằm
bệnh viện, tôi có vào thăm. Ông gầy tọp hẳn, da
mặt nhăn nhúm, ông ngồi dậy nói với tôi:
"Xã hội bây giờ đảo ngược. Kẻ đang ăn
trên ngồi trước như mình trước đây nay phải ở
dưới ngồi sau. Việc thế gian phải chấp nhận chứ
làm sao bây giờ". Kinh A Hàm đã dạy:
"Sở dĩ cái này có là vì cái kia có, cái
kia không thì cái này cũng không". ở trường
hợp này cái kia chính là những ảo ảnh về quyền
lực. Quyền lực luôn luôn làm hư hỏng con người,
kể cả các thầy tu. Những mưu mẹo thủ đoạn đôi
khi quỉ quái khôn lường, tàn độc khôn lường
nhưng nếu nhằm tiêu diệt một thế lực vô luân
để bảo trì chính nghĩa thì vẫn tạo được ra
ngọn lửa huyền vi bốc lên từ nhục thân đức bồ
tát Quảng Ðức. Còn cũng vẫn những mưu mẹo thủ
đoạn ấy lại nhằm tiêu diệt lẫn nhau để giành
một chỗ ăn chỗ ngồi trong giáo hội thì sẽ sinh
ra lửa dục chập chờn bao nhiêu bóng quỉ hình ma.
Chín vì lẽ đó mà tối đã nhiều lần viết thư
lên các bậc trường thượng của giáo hội khẩn
khoản xin được về tu ở chùa cũ để nắm xương
khô một ngày kia được vùi dưới chân tháp
tổ".
4
Bữa cụ Thích Quảng Ðức tự thiêu ông Hai đang ở
vùng bưng sáu xã cách Sài Gòn khoảng hai chục
cây số. Ngày hôm sau ông đã có hình và những
tin tức rất chi tiết về cuộc tự thiêu, phản ứng
của chính quyền Diệm, của các tầng lớp dân
chúng qua báo chí đưa tin và qua báo cáo của
nhiều cơ sở nội thành. Ông còn nhớ rất rõ cái
cảm giác kiêu hãnh và tự hào khi nhìn tấm hình
nhà sư ngồi niệm phật trong quần lửa đỏ. Ông
không chỉ nhìn tấm hình có một lần mà đã ngắm
đi ngắm lại rất nhiều lần. Nhiều năm sau này
trong lãnh vực hoạt động quân báo của mình ông
đã chứng kiến hàng trăm người đón nhận sự hy
sinh rất gan góc, rất thản nhiên, không hề nghĩ
một chút nào tới danh lợi sau khi mình đã chết.
Xung quanh các cơ sở chính trị, quân sự, kinh tế
quan trọng của Mỹ và nguỵ quyền trong thành phố,
ngày từ năm 64, ban quân báo của quân khu Sài
gòn - Gia Ðịnh đều đã ếm sẵn những kho vũ
khí, nơi tập kết quân và các trạm trinh sát để
chuẩn bị các trận đánh lớn nếu tình hình đòi
hỏi. Các đài phát thanh Sài Gòn khoảng hai cây
số có một hầm vũ khí làm từ năm 65 do ông
Hai-bong-bóng đảm trách. Hầm rộng phải đào tới
5 mét khối đất, lại phải đem đất đi đổ xa
cách thành phố cả chục cây số. Mà chỉ được
làm có một mình, làm ban đêm. Ðể giữ bí mật
ông cho vợ con ra thăm quê nội ở Qui Nhơn hẳn hai
tháng nhân các con được nghỉ học hè. Trước
đó ông đã đi học nề mộc, cũng là học lén vợ
con vì làm hầm kiên cố phải biết nề mộc. Rồi
ông còn phải học lái xe, nhận xe và hàng ở một
địa điểm được báo trước rồi lái về nhà
mình. Nhận giữ một hầm vũ khí người chủ phải
lên một kế hoạch hành động tỉ mỉ từ nhiều
tháng trước rồi làm dần dần từng chút một.
Trước tết Mậu Thân chừng nửa năm ông Hai trèo
thang lợp lại mái nhà không may thang gãy ông bị
thương nặng ở đầu. Trước khi chết ông gọi vợ
lại trăng trối về cái hầm vũ khí dưới tầng sau
của lòng nhà, đưa vợ một nửa tờ giấy bạc, dặn
người nào đưa nửa kia ghép lại thì giao vũ khí
cho người ta. Nằm trên vũ khí là nằm trên bản
án tử hình. Cuộc sống che giấu căng thẳng những
giây phút hồi hộp, lo âu không chỉ diễn ra trong
một ngày, trong một tuần mà là trong nhiều năm.
Trong đơn độc, trong thầm lặng ngọn lửa yêu
nước của ông vẫn bền bỉ bốc cháy, bất chấp
mưa to gió lớn, không cần một ai cổ vũ, tiếp
tay, cũng không cần có ai biết, có thể mãi mãi
không có một ai được biết ngoài cái người đã
tới giao nhiệm vụ. Ðã nhiều năm trôi qua ông Hai
đôi lúc nhớ tới ông Hai-bong-bóng ở cuối
đường Hồng Thập Tự, cũng chỉ được biết có
thế. Còn vợ ông sau khi giao hầm vũ khí cho cách
mạng đem con tới nơi khác sinh sống, nay ở đây,
cuộc sống dù đủ hay túng thiếu, liệu bà ấy có
khai báo công tích của gia đình đối với chính
quyền cách mạng? Chắc là không, mà nếu có khai
chưa dễ đã ai tin, vì không có giấy chứng nhận,
người có thể chứng nhận cũng đã hy sinh trong
trận đánh tết Mậu Thân rồi. Lại một trường
hợp khác cũng khiến ông Hai nghĩ ngợi nhiều. Ðó
là bà Mai Hương, hơn ông Hai nghĩ ngợi nhiều
đó là bà Mai Hương, hơn ông Hai chừng vài
tuổi, là một tri thức công giáo cùng với chồng
vào Sài Gòn từ năm 1940. Sau tết mậu Thân các
cơ sở chất chiu từ nhiều năm trong thành phố bị
phá vỡ tan hoang cả. Bà liền đưa một tổ điện
đài của mặt trận lên lầu 4 của chình nhà mình.
Cũng là đã dám coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.
Vì chuyện này vỡ lở thì toà án quân sự nguỵ
quyền có thể xử bắn và tịch biên gia sản người
chủ không cần xét xử. Sau năm 75 vợ chồng bà
hiến cả toà nhà đó cho cách mạng, thuê một căn
hộ nhỏ ở đường Ðiện Biên Phủ vốn là nhà của
một Pháp kiều. Bà không buôn bán gì nữa, xin
làm thủ quĩ của thành hội phụ nữ thành phố.
Một bữa ôm tiền ngồi trên xe xích lô bị cướp
đuổi theo bắn bà lòi ruột để cướp tiền. Hồi
cải tạo tư sản, vợ chồng bà bị đuổi ra khỏi
nhà, tiền hết, chỗ ở không có, bà đến gặp ông
Hai bảo: "An chị phải đi Pháp đây. Xa đất
nước anh chị không muốn nhưng mình đã già rồi
sang đó còn dựa cậy vào con cái". Nói thế
là nhân nghĩa lắm, là không oán trách một ai cả
nhưng mình thì phải nghĩ, càng nghĩ càng đau và
ân hận vô cùng. Rồi lại nhớ tới anh Năm Thông,
bạn chiến đấu của nhiều thời kỳ. Mấy cơ sở Mỹ
ta tấn cống, như cư xá Brink của sĩ quan Mỹ,
đều nhờ Năm Thông điều tra và chụp ảnh rất tỉ
mỉ. Anh là người rất vui và chiều bạn, đã
được bạn bè gọi là ông "toujours oui",
"Jamais non" (luôn luôn có - không bao giờ
không ). Bà vợ có nghề phụ khoa kiêm thêm nghề
xoa bóp bẻ chân bẻ tay cho các bà lớn, nuôi một
bầy con năm đứa để ông chồng được tự do làm
cách mạng. Sau tết Mậu Thân anh Năm bị bắt giam
ở trại Thủ Ðức rồi bị đám an ninh đánh chết.
Những đứa con mỗi đứa chạy một nơi. Còn bà
dắt thằng cháu ngoại chạy về ngã ba Trung Lương
sống ẩn trong một khu vườn bỏ hoang của người
bà con. Khu vườn ấy cũng là nơi cất giấu vũ
khí đưa từ Ðồng Tháp về trước khi nhập Thành.
Một đêm có mấy tên mặc đồ đen lẻn vào dùng
gậy đập chết bà. Bà đã chết từ lâu mà đứa
cháu vẫn còn kêu khóc và lay gọi ngoại nó. Mẹ
thằng nhỏ này là bác sĩ quân y, tóc đã chớm
bạc, còn thằng nhỏ năm nào đã là một chàng
trai tuấn tú, là kỹ sư hoá, đã có người yêu.
Nó nói ông Hai: "Bác có quen biết ông bà
ngoại còn à?". Mẹ nó quát: "mày phải
kêu là ông, ông là cấp chỉ huy của ngoại
mày". Nó cười: "Vậy coi ông còn trẻ
quá hà!". Nhìn nó cười mà ông Hai muốn
khóc, khóc vì hạnh phúc, khóc vì nhớ lại những
người bạn gắn bó của một thời, cái thời ấy
đã xa đến thế sao, mà ông vẫn còn sống đến
tận hôm nay sao? Lại nhớ tới đứa con gái của
Bảy Lốp. Bảy Lốp là cán bộ miền Nam tập kết ra
Bắc rồi trở về Nam năm 60, là đội trưởng đánh
vào Bộ tư lệnh Hai quân nguỵ hồi tết Mậu Thân.
Tấm hình Bảy Lốp mặc áo ca rô, một bên mắt hơi
nheo lại chờ cái chết tức thì, đứng bên anh là
Nguyễn Ngọc Loan tay giơ thẳng khẩu súng ngắn áp
sát mang tai anh chuẩn bị bóp cò, đã được toàn
thế giới biết đến. Ông Hai luôn luôn giữ tấm
hình đó trong cặp của mình. Năm 79 khi đứa con
gái Bảy Lốp gặp ông Hai, nó cứ nhìn ông tủm
tỉm cười, còn ông nhìn nó vừa lạ vừa quen, như
đã từng gặp ở đâu đó, nhất là nụ cười
nhưng không thể nhớ tên, nó còn rất trẻ, khoảng
hai mươi tuổi, không thể là cơ sở của ông thời
đánh Mỹ, chắc nó là con một đồng chí nào đó,
con một chiến hữu, cháu là con ai thế? Nó nói:
"Cháu tên Loan, trùng tên với thằng tướng
nguỵ đã giết ba cháu". Ông chộm dậy, chạy
vòng qua bàn, nắm lấy tay nó: "Con bố Bảy
Lốp hả, chao, bọn mày lớn mau quá!". Trong
mấy năm sau giải phóng Sài Gòn, chiều nào ông
Hai cũng dành một hai giờ đạp xe dạo quanh những
khu phố trước đây ông đã từng sống với bao
nhiêu nỗi niềm yêu thương, đau xót. Tức là ông
đã già rồi, mọi tình cảm luôn luôn dành cho kỷ
niệm, cho quá khứ. Có nhiều ngày sáng nào ông
cũng đạp xe tới tiệm phở Thái gọi ăn một tô
phở chín năm. Ðây là chỉ huy sở của một mũi
tấn công trong đợt đánh tết Mậu Thân. Ông Thái
có người con rể là trung uý hải quân nguỵ. Vợ
chồng nó ở chung nhà nên được về nghỉ ăn tết
với gia đình. Mọi năm chiều ba mươi tết nó
thường đưa vợ con về nhà bố mẹ để tới sáng
ngày mồng hai mới trở lại nhà ông. Năm nay nó
định trưa ngày mồng một tết mới về bên nội.
Ðêm ba mươi đã nổ súng mở màn cuộc tổng công
kích. Ông bố vợ cầm dao dí vào tận mặt con rể,
bảo: "Bắt đầu từ giờ phút này mày phải
theo cách mạng, mày cãi lại là tao chém
liền". Nó chạy ra nói với người chỉ huy mũi
tấn công: "Em là sĩ quan hải quân nhưng em
sẵn sàng nhận mọi nhiệm vụ các anh giao". Sau
đợt 1, cả bố vợ lẫn chàng rể đều phải đi tù.
Bây giờ ông bà đã mất cả rồi, gia đình người
con rể cũng không còn ở trong thành phố. Những
đứa trẻ lớn lên đã lập gia đình thành các
ông chủ của nhiều chi nhánh phở Thái. Ông Hai
tới ăn như một người khác lạ vì chỉ có bố mẹ
chúng nó là biết ông. Ông đã ăn phở rồi trả
tiền, hê ha, sung sướng vì đã có dịp được
sống lại trong chốc lát với vong linh những người
đã khuất. Nhưng có những địa điểm ông không
dám đi qua, không dám nhớ tới nữa vì nó gợi
lại những đau đớn rất khó dứt bỏ trong nhiều
ngày. Chẳng hạn ông không bao giờ dám đi qua
đài phát thanh của thành phố, trước kia là đài
phát thanh Sài Gòn, một mục tiêu tấn công trong
tết Mậu Thân. Ðài có hai trung đội lính canh
gác và tuần phòng, anh em biệt động chỉ có
mười hai người, thêm một người lái xe là anh
Năm Mộc. Chị Năm Mộc mở một tiệm may nhỏ cách
đài có vài chục mét từ mấy năm trước để
trinh sát. Anh Năm vừa tông xe vào cổng thì bị
bắn chết ngay. Mười hai người nhảy ra khỏi xe nổ
súng xông vào nhưng chỉ vào được có tám
người còn bốn người bị kẹt ở ngoài. Mười lăm
phút sau một tiểu đoàn an ninh quân đội tràn
tới. Tám người vẫn bền bỉ chiến đấu từ 2 giờ
sáng ngày mồng một cho tới lúc sáng hẳn. Họ đã
hy sinh mất năm người trong trận đánh đêm đó.
Còn lại ba người với hai trục ký thuốc nổ họ
cho nổ đài phát và cùng hy sinh theo. Trong ba
người chiến đấu đến phút cuối cùng có Khẩu
là thằng con nuôi của ông Hai. Khẩu mồ côi mẹ
từ nhỏ, ở với chú, có nghề khắc gỗ cho các báo
ở thủ đô. Năm 66 Khẩu tình nguyện vào Nam chiến
đấu, ở một đơn vị trinh sát của ban quân báo.
Ðơn vị trinh sát toàn là học sinh, sinh viên quê
ở Củ Chi chỉ lọt vào có Khẩu la người Hà nội.
Quê gốc Khẩu là làng Hữu từ thuộc Hà Ðông.
Quê của ông Hai là làng Tó cách làng Hữu có
một con sông Nhuệ. Nên thầy trò dễ thân nhau.
Lại nhân ông phải đi nằm bệnh viện vì sốt rét
ác tính, Khẩu xin đi theo phục vụ suốt nửa tháng
tận tuỵ, lo lắng như có tình máu mủ. Cả hai đã
bàn tính nay mai giành được độc lập và thống
nhất rồi họ sẽ cùng sống bên nhau mãi mãi ở
Sài gòn. Khẩu sẽ có một cô em gái tên là Thoa
kém hắn bốn tuổi và thằng em trai tên là Thịnh
kém hắn bảy tuổi. Khi có đông người hắn gọi
ông Hai là thủ trường như anh em. Khi còn hai
người hắn gọi ông Hai là bố, tiếng gọi âu yếm,
nũng nịu. Trước khi lên đường làm nhiệm vụ
Khẩu còn hỏi nhỏ ông Hai: "Bố vẫn bị trĩ
đấy à?". Ông nhìn nó nước mắt đã muốn
ứa ra: "Vẫn còn nhưng đã đỡ nhiều".
Hắn lại nói: " Các chị bên quân y bảo bố
phải ăn nhiều rau diếp cá thì mới khỏi ra máu.
Bữa nào con về con sẽ đi kiếm cho bố ăn hàng
ngày". Vậy là nó đã đi mãi mãi. Như giấc
chiêm bao. Bảy năm sau đứa con trai độc nhất của
ông Hai hy sinh trong trận đánh Buôn Ma thuột, mở
đầu những trận đành lớn kết thúc chiến tranh.
Cả hai đứa đều hy sinh ở tuổi hai mươi. Hai năm
sau nữa vợ ông cũng mất. Bấy giờ chỉ còn lại
có đứa con gái đầu và một thằng cháu ngoại.
Và ông cũng không ở lại thành phố Hồ Chí Minh
như đã dự tính mà về nghỉ hưu non nửa thế kỷ
trước. Chuyện đời khó mà tính cuộc sống hiện
tại không? Ông sẽ trả lời với một chút ngậm
ngùi:" Bằng lòng chứ, rất bằng lòng, tôi
đâu có muốn sống khác với hôm nay". Nói
thế cũng là rất thật, vì ông có những lý do
riêng để bằng lòng với hiện tại.
5
Từ ngày lấy vợ tới ngày ông Hai nhận được tin
đứa con trai độc nhất đã hy sinh, trong suốt hai
mươi lăm năm ấy ông vẫn tự nhủ mình là người
may mắn nên đã gặp được một người vợ rất
hiền và có hai đứa con rất ngoan. Có gia đình
đã mấy chục năm nhưng ông chỉ được sống với
gia đình nhiều lắm là năm năm, là thời kỳ ông
làm việc ở Bộ Tổng tham mưu đưa vợ và hai con
từ Thanh Hoá ra thủ đô, ở nhà tập thể của quân
đội, sáng đi tối về như mọi viên chức của nhà
nước. Lần đầu được sống trọn vẹn với vợ con,
mọi việc tạp vặt trong cái tập thể bé nhỏ khiến
ông vừa bực dọc vừa háo hức. Và phải học cách
làm chủ một gia đình, học nhóm bếp lò và nấu
cơm nếu vợ đi làm về muộn, học quấy bột cho
chín và cho con ăn bột, học tắm rửa và thay quân
áo cho các con, rồi học sửa điện, giọi mái nhà,
đóng bàn học và kệ để sách, hàn vá nồi, mua
và dùng các loại thuốc thông thường, cả trăm
việc, việc nào cũng lạ, cũng đòi hỏi phải tỉ
mỉ, kiên nhẫn. Tới lúc thành thạo thì ông nhận
lệnh vào miền Nam công tác, vẫn là công tác
quân báo, nghề ruột từ năm đánh Pháp. Mười hai
năm sau, tức là năm 73, ông ra Hà nội họp được
sống với gia đình hai tháng. Cái Thoa đã hăm
mốt tuổi, vừa tốt nghiệp đại học sư phạm, đang
đợi nhận công tác và có người yêu. Thằng
Thịnh đã mười tám tuổi, thi trượt đại học,
tình nguyện đi bộ đội theo nghiệp bố. Vẫn là
gian nhà mười bốn mết vuông như năm mới nhận
nhà, không cơi nới ra được một tấc nào nên hai
ông bà già phải thu mình lại, phải nói nhỏ đi
để nhường chỗ, nhường lối, nhường tiếng nói
cho hai đứa trẻ con đã thành người lớn, đi
đứng nguềnh ngoàng, nằm ngồi ngả ngốn và đầy
ắp tiếng nói tiếng cười của chúng nó. Chúng nó
dọn giường cho ông ngủ, đun nước cho ông tắm,
giặt quần áo ông thay ra, nấu nướng các món ăn
ông thích và nói chuyện chính trị, chuyện xã
hội thông minh, ngổ ngáo. Ông chỉ cười, nhìn vợ
con và cười cứ như không phải của mình, ông
đâu có chút công lao nào trong việc kiến tạo
một mái nhà ấm áp, hạnh phúc đến thế. Toàn là
nhờ bà vợ cả. Bà vợ lúc mới lấy nhau to mập, da
thịt mỡ màng, một đời ăn cơm cháy, húp canh
cặn, nhai xương gà, nhai bì lợn để nhường tất
cả phần ngon lành cho chồng và hai con mà vẫn
khoẻ, không thấy nằm ban ngày bao giờ, cũng không
nghe kêu mệt bao giờ, luôn miệng: "Anh cứ để
đó, chúng mày cứ để đó". Ðể đó rồi bà
sẽ làm tất tật, làm lúc chồng con còn ngủ, lúc
chồng con đi làm, đi học, đi xem chiếu bóng, đi
chơi. Nhưng bây giờ thì bà đã già lắm rồi,
người thấp đi, nhỏ lại, tóc bạc nhiều và bàn
tay gầy mỏng đen sạm như
chân con gà ác. Bà chỉ ăn hai lưng cơm rồi
chống đũa nhìn chồng nhìn con ăn, miệng như mỉm
cười. Cái nụ cười nhẫn nhục chịu đựng và xa
cách như đã dự cảm những ngày vui này chỉ là
thoáng chốc, là không thể bền. ở đời cái gì
đẹp quá, mãn nguyện quá đều không thể bền.
Quả là không bền thật. Bữa cơm liên hoan tiễn
ông trở lại chiến trường cũng là bữa cơm cuối
cùng của mâm cơm bốn người. Mãi mãi sẽ không
có thằng con trai, ngồi đầu nối xới cơm cho bố
còn người bố vừa ăn vừa ngắm nhìn nó lùa từng
nửa bát cơm vào miệng và gần như không nhai, nó
đã nuốt gọn ghẽ để lùa tiếp miếng sau. Bốn
năm sau nữa ông được về nhà một tháng để
nuôi vợ ốm. Vợ nằm ở bệnh viện, mâm cơm ở nhà
chỉ còn hai người, ông bố và đứa con gái đầu.
Mà cũng chỉ được ngồi ăn vội vã với nhau vào
bữa tối, nói năng với nhau cũng ngắn gọn và
tránh né. Ông ăn vội còn đi nằm. Con gái cũng
ăn vội vì còn bao nhiêu việc làm của một ngày
dồn lại. Cuộc sống đã vất vả càng thêm ngột
ngạt vì thiếu hẳn niềm vui. Chỉ có những lo âu,
những ân hận. Ðêm trước ngày bà mất, vợ ông
cầm tay ông chỉ ao ước có một điều: nay mai bố
ở đâu thì hai con phải ở liền đấy. Mỗi lần
nghĩ đến chồng làm việc ở Sài Gòn, con trai nằm
ở Tây Nguyên, con gái dạy học ở Hà nội có chết
cũng không nhắm được mắt. Sáng hôm sau khi ông
mua bát phở lên nâng đầu bà bón ăn như mọi
lần nhưng thìa phở vừa cho vào miệng lại trôi
ra, hàm đã cứng rồi. Bà nằm thoi thóp tới nửa
ngày, vẫn nhận ra chồng và con gái nhưng không
thể nói được, đuôi mắt lúc nào cũng ướt
đẫm. Chắc là còn tiếc lắm, còn nhớ lắm, còn
cố níu vớt chút giây phút cuối gần gũi những
người thân trước khi phải xa cách mãi mãi. Trong
bữa cơm vừa là tuần cúng bảy ngày cho mẹ vừa
để chia tay với bố người con gái nói: "Ðầu
năm tới chúng con làm lễ cưới, bố cố ra
nhé." Ông nói: "Trong ngày vui của các
con bố phải có mặt chứ." Nói vậy, đã định
vậy mà không được vậy. Ðầu năm sau mặt trận
biên giới phía Tây Nam đã cuốn hút hết tâm trí
tình cảm của ông từ nhiều tháng trước. Trước
tết ít ngày, con gái gửi thư vào báo tin chúng
nó không làm lễ cưới vì bố không ra được, vả
lại đang còn tang mẹ nên chỉ đến uỷ ban đăng
ký kết hôn rồi mới bạn bè tới ăn nhậu hẳn một
ngày. Sau đó cả hai vợ chồng đi Thái Bình để
trình diện bố mẹ và anh em bên chồng. Cuối năm
ông được báo tin đã có cháu ngoại, cháu trai
và giống cậu Thịnh nó y hệt, mẹ nó viết thế.
Ông nhét thư vào túi áo, một ngày mở thư ra
đọc tới mấy lượt, chóng thế, ông đã là ông
ngoại, thằng cháu trai lại rất giống cậu nó. Hai
chục năm nữa, nếu ông được sống đến năm đó,
lại có một chàng trai hai mươi tuổi ngồi xới
cơm cho ông ăn, nó vẫn là máu mủ của ông chứ
đâu phải người lạ. Cuối năm 80, ông Hai mới
dứt được việc ra thăm con gái, con rể và cháu
ngoại. Mâm cơm lại vẫn bốn người, ba người lớn
và một thằng cháu nói năng ngọng nghịu thơ
ngây. Ông ở lại nhà được một tháng. Mỗi sáng
đưa cháu tới nhà trẻ rồi ông đi họp, mỗi
chiều về đón cháu hai ông cháu dắt nhau đi chơi
khắp nơi mọi nhà trong khu tập thể cho tới giờ
ăn cơm. Ra lần này ông bàn với vợ chồng con gái
đưa cả nhà vào thành phố Hồ Chí Minh. Thằng
chồng có nghề xây dựng là cái nghề mà thành
phố đang rất cần. Con gái dạy toán cấp ba đã
có trường sẵn sàng nhận vì hiệu trưởng là con
trai lớn của một gia đình cơ sở thời đánh Mỹ.
Phần người sống đã yên ổn rồi ông sẽ lên
Ðaklăc đưa nắm xương con trai về thành phố. Thu
xếp xong công việc cuối đời như thế là xong, là
đẹp, là hợp với nguyện vọng của người đã
khuất.
Vậy mà xem chừng lại chưa
xong vì thằng con rể đang có nhiều mối làm ăn
ngay ở Hà nội. Chúng nó còn dự định mua nhà ở
trên phố. Thôi, thì cũng mừng cho con cái, thời
sau hơn thời trước, chúng nó ở đâu ông sẽ ở
đó khi hưu nghỉ. Lúc trẻ cậy vợ về già cậy con
như anh em thường nói. Ông ở với con gái một
tháng nhưng chỉ ngồi ăn cơm với chàng rể có
vài bữa, hầu như nó không ngủ nhà, có lần vắng
nhà cả tuần. Ông hỏi thì con gái trả lời dịp
này chồng nó bận, phải ăn ngủ ở công trường.
Nhưng mặt nó sao buồn thế, cái nhìn lấm lét,
nhẫn nhục như con chó bị đánh. Thoạt đầu ông
nghĩ rằng có lẽ vợ chồng nó làm ăn phạm pháp,
kiếm tiền, quá nhanh, quá dễ thì chỉ có ăn cắp
thôi, nay hẳn công việc vỡ lở nên thằng chồng
phải chạy đôn chạy đáo đê thoát thân còn con
vợ vốn phụ thuộc, hiền lành chỉ còn biết ngồi
nhà trông đợi. ở ít hôm thì hình như không
phải thế, thằng con rể vẫn nguyên vẻ mặt mãn
nguyện của thằng trọc phú, lại khinh vợ vì phải
sống bám vào nó và nói năng với bố vợ như kẻ
bằng vai phải lứa, còn hơn thế, như người rất
thông minh phải trò chuyện với một kẻ ngây ngô,
chậm hiểu. Là sao thế nhỉ? Có hai chi tiết khiến
ông hết sức quan tâm. Trong một bữa cơm con vợ
gỡ xương khúc cá rán rồi lại đặt miếng thịt
cá lên bắt cơm của chồng, lại quệt ngón tay
dính mỡ lên cơm. Thằng chồng ngồi nhìn lừ lừ
rồi hất hàm bảo vợ: "Xới bát cơm khác
đi!" Vợ nó hỏi ngơ ngác: "Sao thế, anh?
" Nó nói rin rít: "Miếng ăn cho vào mồm
quệt chân quệt tay vào ghê bỏ mẹ. "Lại một
lần ngồi vào mâm cơm thì thằng con từ ngoài
chạy vào rồi nhảy tót lên lòng bố, bàn chân đi
đất in hằn cái gót đen lên mặt vải quần màu
xám nhạt. Thằng bố hất con xuống, quát:
"Thằng quỷ, lần sau còn làm thế tao bẻ gẫy
chân." Rồi nó sai vợ lấy khăn ướt lau sạch
vết bẩn. Suốt bữa ăn nó càu nhàu với vợ nó về
mọi chuyện, lát lát lại nhìn xuống vế đùi, lấy
tay xoa xao lên vết bẩn đã được lau sạch. Còn
vài ngày nữa ông lại trở vào Sài Gòn, ông hỏi
thật con gái: "Hình như vợ chồng mày có
chuyện không vui phải không?". Con gái ông
quay mặt đi: "Không có gì cả bố ạ, tính anh
ấy vẫn thế." Ông cười nhạt: "Tao biết
chứ, nó không yêu mày như mày đã yêu nó."
Thế là con bé bưng mặt oà khóc. Mãi một lúc sau
ông mới hỏi tiếp: "Chuyện thế nào? " Con
gái ông không được đẹp nhưng ưa nhìn, chăm
chỉ, tiết kiệm, thương chồng con hơn bản thân
nó nhiều. Nó giống hệt mẹ nó, nhưng mẹ nó là
người của thời đại trước, cái thời vợ chồng
cùng đi làm, con cái ngoan ngoãn, ăn tiêu vừa
đủ với đồng lương, không vay mượn ai, không
có điều tiếng gì ở cơ quan cũng như ở phố
xóm. Là một gia đình lương thiện, có cuộc sống
trong sạch. Ðược như thế đã mãn nguyện. Nhưng
bây giờ thì không thẻ đủ, hoàn toàn không đủ.
Bây giờ người vợ phải biết ăn mặc, trang điểm,
nấu ăn, tiếp khách, nếu có thể còn tham gia vào
mọi sự làm ăn của chồng, tiếp tay cho chồng, làm
vinh dự cho chồng. Con gái không được thế, nó
giống như mẹ nó đã là không hợp thời, lại
sống như một nhà giáo mô phạm lại càng không
hợp thời. Chồng nó đang say tiền, quyết chí làm
giàu bằng mọi cách, nó lại khuyên chồng nó chỉ
nên làm một kỹ sư xây dựng trong biên chế nhà
nước, ăn lương và lãnh tiền thưởng. Chồng nó
muốn có nhiều bạn làm ăn bất kể lai lịch họ ra
sao. Nó lại khuyên chồng nên xem xét người chánh
kẻ tà trước khi kết bạn. Chồng nó muốn mời bạn
bè ăn những bữa cơm gia đình ấm áp thân mật
nhương nó không biết làm món nhậu, nấu các món
ăn cầu kỳ, không biết bầy bàn, không biết cả
cách đưa món nào trước món nào sau. Chồng nó
muốn vợ phải bặt thiệp, phải biết chuyện trò,
đưa cợt thông minh, duyên dáng để tình bạn
thêm gắn bó nhưng con vợ lại chỉ hỏi người ta
chuyện gia đình (cấm kỵ), chuyện công tác (rất
cấm kỵ), chuyện cơ quan (không ích lợi gì) và
khi hết cả mọi chuyện lại nói về đứa em đã hy
sinh và một ông bố đại tá quân báo đã từng
chỉ huy nhiều trận đánh Mỹ rất lấy lừng ngay
tại giữa Sài Gòn. Nói tới Sài Gòn, lập tức có
nhiều người hỏi: ông già hiện làm có lớn
không, có quen biết nhiều không , có biệt thự
chưa và hỏi liền địa chỉ cùng số điện thoại
của ông nếu có dịp sẽ lại chào. Con gái ông
đại tá sợ quá vội nói rằng ông già nó rất
"bôn", đừng có nói chuyện làm ăn phi
pháp trước mặt ông mà bị tống ra khỏi cửa. Vậy
chị nói chuyện đó để làm gì nhỉ, để khoe có
một ông bố làm lớn à? Làm lớn mà không giúp
gì cho con cháu và bạn bè của con cháu thì vứt
đi. Vậy là hết chuyện.
Thằng chồng nhìn vợ bằng con
mắt căm thù. Còn cô vợ thơ ngay chỉ biết khóc
thầm vì cô rất vẫn yêu chồng. Yêu tới mức cô
sẵn sàng tha thứ tất cả dầu cô đã biết từ nửa
năm nay người chồng đã ăn ở với người đàn
bà khác lớn tuổi hơn cô, đã bỏ chồng nhưng
đẹp hơn, bặt thiệp hơn, có vốn liếng riêng khá
lớn và là người vẫn cung cấp vật tư cho ông
chủ thầu mới phát, lại có cả nhà riêng nữa,
cái nhà ấy hiện giờ là tổ ấm của bọn họ. Cô
thua kém người đàn bà kia về mọi mặt, chỉ hơn
là đã có một đứa con trai với chồng. Nhưng anh
ấy đâu có yêu con, đời ai biết đời đó, bố
mẹ mà làm gì, con cái mà làm gì, một đời
người là rất ngắn, chỉ sống cho riêng mình vẫn
còn rất thiếu thời, giờ đâu sống cho người
khác, anh ta vẫn nói thế, chẳng ra đùa cợt chẳng
ra nghiêm trang nhưng anh ấy đã sống đúng như
vậy.
Ông bố bàn với con gái:
- Hai mẹ con mày vào sống với tao trong ấy ít
lâu, tao lui lại một tuần cho mày chuẩn bị. Nếu
nó biết nghĩ lại thì nó sẽ vào cùng sống với
vợ con luôn. Còn nếu nó dứt tình hẳn ta sẽ tính
tiếp. Còn có bố mà.
Ðứa con gái lại khóc:
- Nếu con đi luôn với bố thì con sẽ mất anh ấy
ngay lập tức. Mà con thì chưa muốn mất anh ấy
sớm quá. Con vẫn còn thương anh ấy lắm.
Ông bố thở dài, cứ như bị ai đánh một búa vào
đầu,, mãi mới nói được: - Nếu đã là thế thì
tao chả dám khuyên bảo mày thêm điều gì. Nhưng
đời mày rồi sẽ khổ con ạ.
Trước khi ra sân bay ông ôm hôn cháu còn đang
nằm ngủ, và dặn mẹ nó chỉ một câu:
- Ðời con còn dài, đừng làm điều gì dại dột
khổ cả đứa bé, khổ cả ông già. Con phải luôn
nghĩ, dầu bề nào con vẫn còn có bố.
6
Sau khi li dị chồng, Thoa vẫn không đem con vào ở
với bố trong thành phố Hồ Chí Minh vì người
chồng cũ đã cùng cô vợ mới bán nhà ở Hà nội
để vào sống trong đó, miền đất hứa cho tất cả
những ai quyết chí làm giàu. Cô không muốn lại
gặp mặt họ trong một thành phố, cũng không thể
sống chung với họ dưới một vòm trời. Coi như
goá chồng, âm dương cách biệt, mãi mãi không
thể nhìn lại mặt người đã chết. Vì nếu ở
gần, sẽ có lúc không thể kìm giữ lòng mình, cô
sẽ tới rình mò trước cửa mà họ để được
nhìn trộm trong chốc lát bóng dáng người đàn
ông đã từng là chồng cô, là bố của đứa trẻ,
là niềm vui và nỗi buồn suốt một thời con gái.
Con gái không vào thì người bố phải ra, lần này
ông ra hẳn, ông đã sáu mươi mốt tuổi, xin hưu
nghỉ cũng là vừa. Trả lại biệt thự cho nhà
nước nghĩ cũng tiếc nhưng không tiếc bằng buồn
bằng phải chia tay với bạn bè, và thành phố đã
là tình yêu của ông trong nhiều chục năm. Gặp
lại bố đứa con gái chỉ còn biết khóc: "Con
rất khổ tâm đã để bố phải ra đây ở với mẹ
con con. Một đời phục vụ cách mạng, cuối cùng
chả được gì." Ông cười xoà: "Bố thì
nghĩ khác, đã nhiều chục năm bố phục vụ cách
mạng, phục vụ quân đội nay còn mấy năm cuối
đời bố dành lại để phục vụ con gái và cháu
ngoại của bố. Có gì là không phải đâu".
Con gái nói:
- Nhưng còn cuộc sống riêng của bố?
Ông nói:
- Bố sợ nhất là người khác không còn cần tới
bố còn ngoài ra chả có gì làm bố quan tâm.
Con gái gục đầu vào vai người bố:
- Mẹ con con mãi mãi còn cần bố. Bố là chỗ dựa
duy nhất và cuối cùng của con.
Ông cười:
- Vậy thì bố sẽ sống và ở với con với cháu tới
lúc con cháu phải chán thì thôi.
Con gái cũng cười:
- Thôi thì bố đi đâu?
Ông gắt yêu:
- con này hỏi lạ, thôi tức là tao sẽ chết chứ
còn đi đâu nữa. Với tao muốn sống bao lâu cũng
được, muốn chết lúc nào cũng được. Hoàn toàn
tuỳ thuộc vào người khác cả.
Rồi ông lại dặn:
- Tao nói trước, còn tại ngũ tao luôn làm theo
mệnh lệnh của cấp trên, không bàn cãi tranh luận
gì cả. Nó đã thành thói quen. Bây giờ về ở
với mẹ con mày thì mày là chỉ huy, tao sẽ làm
theo mệnh lệnh của mày. Khi tính toán mày cứ
tính cho được việc của mày thôi, đừng tính
tới tao.
Và ông làm đúng như ông
đã nói. Con gái ông không muốn ở nhà cũ vì nó
gợi lại quá nhiều kỷ niệm về mẹ, về em, về
những năm tháng đắm say trong mối tình đầu. Thì
tìm nhà mới, không sao. Nó cũng không muốn sống
ở Hà nội. Hà nội vắng thiếu chồng nó đã hoá
ra nhợt nhạt, nghiêng ngả, sống không nổi. Nó
muốn tới một nơi thật lạ, với những con người
lạ, những bạn bè mới, không gặp bất cứ kỷ niệm
nào, một người quen cũ nào. Thì đi. Ði đâu
cũng được. Họ đã tìm được một trường cấp
ba gần thị xã Hà Ðông đang thiếu một cô giáo
dạy toán. Hai tháng đầu họ thuê nhà ở trong
làng. Sau đó họ mua lại một ngôi nhà gỗ năm
gian gần phố huyện, có vườn bao quanh của một hộ
đang thu xếp vào Sài Gòn sinh sống. Nhà bán quá
rẻ, một cây rưỡi vàng, nhưng vẫn là một món
tiền lớn với ông Hai. Con gái ông bằng lòng mua
ngay, vì nó có trong tay những hai cây. Ông hỏi:
"Vàng ở đâu thế?". Nó nói: "Của
anh ấy đưa để nuôi con". Ông gắt: "Sao
mày còn cầm tiền của nó?" Con gái trả lời
lạnh tanh: "Con không xin nhưng anh ấy đưa con
nhận ngay vì con muốn nuôi cháu bằng tiền của bố
cháu." Ông cau mặt lặng im. Không thể tranh
cãi gì với những lý lẽ quái đản của tình yêu.
Tội nghiệp con bé!
Sau hơn hai chục năm ông Hai
lại được sống trọn vẹn với gia dình nhưng lần
này hơi nghịch cảnh, một ông già đã nghỉ hưu,
một đứa con gái lỡ dở vì chồng bỏ và một
thằng cháu ngoại mới ở tuổi mẫu giáo. Chẳng có
gì vui vẻ chờ đợi họ ở phía trước cả. Mỗi
năm qua đi ông sẽ già yếu hơn, gây trở ngại cho
những người cùng sống nhiều hơn, một nhà ba
người mà có những hai đứa trẻ. Ðứa con gái
mỗi năm cũng sẽ khô héo đi, nó vốn không đẹp
lại đã ngoài ba mươi, lại thêm một đứa con,
có lấy ai cũng là rổ rá cạp lại, rồi con anh,
con tôi, con chúng ta, ba thứ con trong một gia
đình, chỉ dàn xếp cho chúng nó sống được
thuận hoà cũng đã đủ bạc đầu. Lại thêm ông
phải bỏ hết những thói quen cũ, những sở thích
cũ để khuôn dần mình vào những đỏi hỏi mới
của cuộc sống hiện tại. Cuộc sống hiện tại là
cuộc sống của người dân thường, của người đã
nghỉ hưu, không phải kiếm tiền, không phải chịu
trách nhiệm, ngủ không cần giấc, ăn không cần
bữa, không hẹn ai, cũng chẳng có ai hẹn mình, ốm
lúc nào cũng được, chết lúc nào cũng được,
là người thừa, người bị khinh lờn, người
được thương hại. Nếu ông chỉ sống cho riêng
ông thì không còn gì để hy vọng thêm nữa,
được thêm nữa, chết là được. Nhưng ông đã
hứa một cách nhẹ nhõm, thản nhiên là từ nay ông
sẽ sống cho con gái và cháu ngoại, họ cũng rất
cần ông thì lại rất nên sống. Sống cho người
khác, vẫn có một người nào đó trên đời này
cần sự hy sinh của mình thì cuộc sống còn dài
lắm, vẫn còn vui lắm, có ý nghĩa lắm. Chưa nên
vội vàng kết thúc. Vả lại ông không phải là
người đầu tiên cũng chẳng phải là người cuối
cùng sống vì lòng hy sinh. Nhưng tuổi già lại
phải sống với đứa con gái bất hạnh, hai con
người đơn độc dựa dẫm vào nhau cũng có những
nối gian nan riêng. Phải thông cảm, phải nín
nhịn, phải độ lượng trong từng việc làm, từng
lời nói của mỗi ngày. Có nhiều ngày nó rất
ngoan, rất thương bố, rất biết ơn sự hy sinh của
bố. Nhưng cũng có ngày nó hành hạ ông như một
tên đầy tớ già, như một người thừa, như một
kẻ đã gây ra mọi tai hoạ cho mẹ con nó. Nó bảo:
"Con cái nên người là nhờ vào phúc đức
của bố mẹ. Trong lá số của con cung phúc đức
lại quá kém." Nó lại bảo: "Bố sống với
con cháu cứ như người cực chẳng đã phải cùng
sống. Mẹ sống với chung con cả mấy chục năm, khổ
hơn bây giờ nhiều, có bao giờ nghe mẹ thở dài
bao giờ? " Nó nói: "Nhìn mặt bố còn khổ
tâm hơn cả nghe một tiếng thở dài." Nó chê
ông ngủ ngáy to quá, ăn cơm và nuốt ồn ào quá,
trò chuyện với thanh niên hay lên mặt dạy đời,
nói chuyện với người bằng tuổi cứ y nhà cấp
chỉ huy cũ của người ta, nói gì thì nói cuộc
sống lính tráng cũng thiếu tế nhị, thiếu mềm
mại, bố nhỉ? Nó bị cảm cúm ông chạy lồng lộn
khắp vườn trong ngõ ngoài kiếm đủ thứ lá lẩu
nấu một nồi nước xông, vừa bưng lên, con gái
đã gắt: "Mua thuốc cảm không mua lại đi nấu
nước xông, sao mà lẩm cẩm thế!" Ông dỗ
dành:
"Xông là khoan khoái hơn uống thuốc con ạ,
rồi ăn một bát cháo hành nóng là coi như
khỏi." Nó ho một tiếng ông lại hỏi một
tiếng, ăn ít cũng hỏi, ngủ ít cũng hỏi, ngủ mà
rên cũng hỏi, nó gầm lên: "Hỏi ít chứ, sao
mà hỏi lắm thế!" Ông len lét ngồi một chỗ
như người vừa phạm tội. Ðêm nằm nghĩ về sự
đối xử của con ông vừa giận vừa tủi. Thì ra nó
đâu có cần ông. Sau lại nghĩ ở trên đời này
nó còn có ai để nũng nịu, để hờn dỗi, để
quát gắt ngoài ông ra. Mọi sự không may của một
gia đình chính nó phải gánh chịu bằng hết.
Người đã chết thì yên phận rồi, ông tuy còn
sống nhưng chỉ là sống thêm, sướng hay khổ cũng
chả có gì quan hệ. Nhưng nó vẫn phải sống tiếp
cái cuộc sống chả lấy gì làm vui trong vài chục
năm nữa. Nó còn khổ nhiều, tội nghiệp con gái.
Nghĩ đến thế lại thương con đến đau ruột, lại
sẵn sàng tha thứ hết thảy. Sống vô công rồi
nghề được nửa năm thì ông mở ngôi hàng nước.
Con gái ông phản đối nhưng ông không nhân
nhượng, ông quyết chí làm , không vì tiền, mà
muốn có những vất vả nho nhỏ, những lo toan nho
nhỏ, những niềm vui nho nhỏ làm cân bằng cảnh
sống thắt buộc, căng thẳng mà ông đang phải
chịu đựng. Thêm nữa được tiếp xúc hằng ngày
với cuộc sống xã hội, với những con người vô
danh ông sẽ sửa chữa được những tật xấu mà con
gái đã chê trách. Ông có thể từ bỏ lòng kiêu
hãnh để khỏi làm tổn thương những bạn bè mới
quen biết. Ông có thể cười nói chậm rãi để
biểu lộ sự nhún nhường và cũng hợp với tuổi
tác. Nhưng ông phải ăn vội vã, nhai nuốt ồn ào
mới khoái khẩu. Cũng như đã ngủ là phải ngáy
giấc ngủ mới sâu. Vả lại ông đâu làm chủ
được mình khi đã ngủ. Làm người thế mà khó,
mỗi lứa tuổi đều có cách sống của nó, làm
khác đi sẽ gây ngượng ngùng, gây khó chịu, gây
buồn phiền cho rất nhiều người. Lúc mới ra hàng
ông chỉ bán có nước chè tươi và trà chén,
thuốc lào và kẹo vừng, kẹo bột. Rồi ông bán cả
bánh chưng, bánh rán làm quà sáng cho những
người ít tiền, về sau ông thổi cả xôi, xôi
đậu xanh và xôi lạc ăn với vừng. Ðã bán xôi
sáng, ông có quyền ngủ sớm để sáng hôm sau dậy
thật sớm đồ xôi. Mỗi chiều dọn hàng ông đều
mãn nguyện, mỗi sáng mở hàng lại thấy náo nức.
Vì mỗi ngày đều có cái mới lạ của nó. Dần dà
quán nước của ông còn là đầu mối của mọi
loại tin tức về kinh tế và xã hội trong vùng.
Người ta đến đây để phát tin và nhận tin, để
bình luận và tranh cái, để thông báo cho nhau
biết kết quả của những lời mách bảo hoặc cảm
ơn ông bán quán đã có những lời khuyên rất
thân tình. Ông Hai sống trong cái tâm trạng vui
vẻ ấy được một năm thì gặp sư già chùa Thắm.
7
Hai người quen nhau đã hơn
hai năm, ông Hai ra vào chùa đã nhiều lần nhưng
sư già chỉ tới thăm ông có một lần. Cụ chống
gậy đi bộ, ngồi chơi một nửa ngày gần chiều
mới về chùa để khỏi thất hứa với bạn. Cụ ngồi
ngay ở quán nước, uống trà với kẹo bột, mắt
miệng như cười, lắng nghe mọi câu chuyện của
khách hàng với ông chủ quán. Sư già bảo:
- Ðạo Phật thường nói lấy từ bi làm gốc,
phương tiện làm môn. Quán nước của ông cũng
là một phương tiện cứu độ để bạn vui trừ khổ
cho đời. Nhiều thiện duyên lắm, nhiều phúc đức
lắm.
Có một buổi sáng chủ nhật
ông Hai lên chùa thăm sư già, định bụng chỉ
ngồi chốc lát nào ngờ trò chuyện lan man tới gần
trưa. Sư già nghiêng mặt nhìn qua tấm giại xem
bóng nắng rồi bảo:
- Sắp chính ngọ rồi, mời ông ở lại cùng thụ
trai với tôi, chiều dịu nắng hãy về.
Ông Hai cười ngượng nghịu rồi nói rất chân
thành:
- Bạch cụ, mỗi làn đến thăm cụ dầu đã định
bụng sẽ về sớm mà rồi vẫn
không về nổi. Tôi chỉ lo không được ở gần cụ
mãi mãi.
Sư gia nhìn chăm chú ông đại tá bằng cặp mắt
đã hơi đục bạc, miệng vẫn như hơi cười:
- Ðã có lần tôi nói với ông, ông không cần tu
mà vẫn có thể đạt quả vị bồ tát. Kinh kệ,
tăng ni, chùa chiền chẳng qua là ngón tay chỉ cho
chúng sinh thấy con đường giác ngộ. Ðã thấy
đường thì nên quên ngón tay chỉ. Ông là một
chiếc sĩ tung hoành trong máu lửa gần một đời
người mà không mắc sát nghiệp. Ông ở trong bộ
máy quyền lực cũng rất lâu mà vẫn vào ra cái
nơi sâu hiểm ấy hết sức ung dung. Ông là người
của công danh, xứng đáng được hưởng công danh
nhưng ông vẫn rũ bỏ được nó như ta bỏ cái áo
cũ. Ông nằm trong đáy sâu của mọi hệ luỵ triền
phược mà vẫn hồn nhiên, trinh trắng như trẻ
thơ. Cái tâm xá của tôi không thể bằng được
ông, ông Hai ạ. Tôi là người xuất gia, không
vướng thê tử, không vướng công danh, không
vướng quyền lực, sống trong một môi trường hoàn
toàn thuận lợi cho một đời tu, vậy mà đã có
những năm tháng để tâm mình khởi lên lúc tham
dục, lúc sâu hận, lúc si mê, dẫu đã được tận
mặt nhìn ngọn lửa siêu thoát của bồ tát Quảng
Ðức. Tới lúc bức bối quá, tự mình vướng víu
vào nhiều sầu não lâu quá thì lại tìm một cách
thoát tiêu cực là lẩn tránh, là trốn chạy. Về
tu ở đây, xét cho cùng là trốn chạy thế gian vì
không đủ sức đối đầu với những vất vả, những
cám dỗ của thế gian.
Năm 1986, ông Hai đã sáu
mươi sáu tuổi, sư già đã bảy mươi tư, họ là
bạn của nhau gần được ba năm thì sư già ngã
bệnh. Một người làm thuốc giỏi nhưng mắc bệnh
hiểm nghèo nên đành chịu bó tay. Cụ lên nằm
trên bệnh viện tỉnh gần ba tháng, các bác sĩ
khuyên cụ nên cho họ mổ cắt khối u trong phổi
nhưng cụ từ chối. Cụ nói với ông Hai khi ông
lên thăm: "Cỗ xe ngũ uẩn này đã hư nát
quá rồi, chẳng còn cần cho ai nữa, nên vứt đi
thôi, còn nuối tiếc làm gì". Rồi cụ xin
được trở về chùa. Tháng đầu cụ còn di lại
được nhưng phải chống gậy. Sau đó đi đâu
phải có tiểu dìu rồi không đi đâu nữa chỉ nửa
ngồi nửa nằm trên cái chõng tre có trải nệm để
thỉnh thoảng được ghé mắt qua tấm giại nhìn
người ra kẻ vào, ghe tiếng chào và hỏi han đôi
câu. Rồi cụ bắt đầu sợ lạnh, phải nằm trong
phòng, nửa ngủ nửa thức nhưng bao giờ cũng tỉnh
táo khi nghe nó có ông Hai đến. Hầu như ngày
nào ông Hai cũng đến thăm, đến lúc chiều rồi
ở cho đến tối mịt. Về sau khi biết sư già đã
yếu nhiều thì ông thường ở lại qua đêm, trò
chuyện với các sư là đệ tử của hoà thượng từ
các chùa xa về hầu và lo việc hậu sự. Buổi
chiều của ngày cuối cùng, sư già rất tỉnh, nuốt
được lưng chén nước cháo, nằm nghỉ một lát
rồi bảo ông Hai:
- Lúc nhân duyên sắp mãn phảng phất như không
còn là mình nữa mà đã được trở lại cái tuổi
ấu thơ. Trẻ thơ hồn nhiên, trinh trắng như hoa
sen. Ðẹp thay đoá sen.
Một lúc sau cụ lại hỏi:
- Ông có thường nghĩ đến cái chết không?
Ông Hai cúi đầu, nước mặt đã rưng rưng, nói
nhỏ:
- Bạch cụ, tôi cũng chả mấy khi nghĩ đến. Còn
có người cần tôi thì tôi ở, không ai cần nữa
thì tôi đi. Nghĩ ngợi mà làm gì.
Ông già khẽ thở dài, nói lẩm nhẩm:
- A di đà phật, đó mới là thật là thiện căn,
là tâm không chấp trước. Sư già đã thiu thiu
ngủ, cái đầu nhỏ xíu lởm chởm những chân tóc
bạc như đã khô lắm, mỏng lắm, như bên trong là
cái rỗng không. Và dưới cái sọ ấy là những
hốc tối của mắt, của gò má, cánh mũi. Ông
Quang, người quản sự của chùa, rón rén bước
vào, cúi đầu nói nhỏ với ông Hai: "Các
thầy còn thỉnh cụ ra ngoài nghỉ". Ông Hai
khẽ gật. Người kia lại nói: "Cụ con đã yếu
lắm, không chừng khó qua được đêm nay."
Ông Hai lại gật, nước mắt ửa ra. Tiểu minh bưng
một rá khoai sọ luộc, một bát muối vừng và một
ấm nước chè tươi đặt lên vuông chiếu mộc
trải ở thềm hè. Trang mười sau đã nhô lên khỏi
cái mái ngói đen sẫm của gian thờ Hậu, vầng
trăng rất tròn và trong, nền trời xanh lam cũng
rất trong. Bóng trăng tãi lên nền sân in bóng
mấy ngọn cau khẽ lay động. Mùi hương hoa mộc
ngọt và ngái thoang thoảng đâu đó lẫn với mùi
nhang ngát tưởng chừng là mùi lối đi trong ngôi
chùa có đấy mà như không có đấy trong những
sinh hoạt thường ngày của một xã một làng. Ông
Hai đã có bạn chiến đấu, bạn đồng học, đồng
hương, bạn cùng làm một cơ quan, cùng sống trong
một khu tập thể. Mấy năm gần đây những người
bạn của gần một đời người đã thưa vắng
nhiều. Ðến bây giờ ông lại sắp mất một người
bạn của tuổi già để hiểu thêm một chân trời
khác ngoài những chân trời đã biết, để nhận ra
từ cuộc sống có nhiều hệ luỵ của mỗi ngày vẫn
có thể phát sáng tới vô cùng. Ông đã uống
lưng bát nước chè tươi nóng, lại ăn thêm mấy
miếng khoai, vãn thấy trong miệng nhạt thếch như
không còn nước bọt. Ông thảng thốt đứng dậy,
lòng dạ bồn chồn nói với ông Quang: - Anh thưa
với các thầy tôi vào ngồi hậu cụ tới nửa đếm
sau đó các thầy sẽ lên thay tôi.
Rồi ông khẽ khàng mở cửa
buông nhưng hai đầu gối bỗng dưng mềm nhũn như
không thể bước qua nổi ngưỡng cửa. Ông cứ
đứng nguyên như thế nhìn vào ngọn đèn cháy leo
lét ở đầu giường sư già, tin một cách chắc
chắn rằng người bạn tri kỷ của ông đã không
còn nằm ở đó nữa. Ông cụ đã lạng lẽ bỏ đi
từ lâu rồi, đi đâu đó nào ai biết, có thể
vẫn là tiếp tục cuộc tìm kiếm cái "Chân
như" như cụ hàng khắc khoải.
2/93
Lên đầu trang
|