NGUYỄN MINH CH˘UPHIŁN CHỢ GIÁT
Ðoạn rồi như
một kẻ vừa may mắn thoát hoạ, lão Khúng thở
phào. Thực may ! may quá ! Vậy là không phải, chỉ
là trong giấc mơ. Không phải thực. Ðúng, mà
đây rồi, con khoang đen nhà lão lúc này đang
khụt khịt ở ngoài gian bò sau nhà bếp. Lão yên
tâm nằm xuống. Và nghĩ về giấc mơ tiếp sau đó.
Pin ! pin ! pin ! Lạ lùng sao, con bò bỗng kêu rống
lên lanh lảnh như tiếng còi ôtô vậy nhỉ ? Mà
hoá ra ôtô thật, trong giấc mơ lão Khúng chẳng
thấy con bò nhà lão ở đâu nữa, mà từ phía sau
lưng lão, ngật ngưỡng lao vút đến một chiếc xe
commăngca đầy oai vệ. Chiếc xe đít tròn không
chạy trên đường mà bay là là trên mặt đám
ruộng trồng khoai lang, bay qua đoạn mương dẫn
nước trước nhà lão Khúng rồi lại bay qua mảnh
sân nề vôi, bốn bánh xe không hề chạm mặt đất
! Lão Khúng cứ trương mắt đứng ngó trân trân vào cái mặt kính chắn gió. Lão trông thấy loang loáng ở đằng sau có một người đàn ông thân hình phương phi, mặt tròn vành vạnh và đỏ rực như vầng mặt trời mới mọc, mặc sơ mi cụt tay màu trứng sáo đã hơi nhùng nhục, đội chiếc mũ cát két xám. Người ngồi ôtô hớn hở tươi cười nhìn lão, chém chém vào không khí, giống hệt bàn tay của các lãnh tụ trên lễ đài mà lão Khúng đã nhìn thấy nhiều lần ở trong phim. Người đang ngồi trong chiếc xe đít tròn biết bay chính là ông Bời bí thư huyện uỷ, con người đang nổi tiếng khắp đài báo trong cả nước và là bạn thân của lão Khúng. Nghĩ tiếp về giấc mơ đến đoạn đấy thì lão không nghĩ thêm nữa. Lão vẫn giữ nguyên tư thế nằm ngửa, chỉ động đậy hai cẳng chân duỗi thẳng, toàn thân hơi mềm ra. Lâu nay thỉnh thoảng có đôi lúc lão đã thấp thoáng nghĩ đến cái chết. Ðêm lão nằm mê thấy những chuyện vui thì ít, rủi ro, tai hoạ là nhiều. Cho nên mỗi lần nằm mê thức dậy bao giờ lão cũng mừng, rút cục là một nỗi mừng rỡ, âm thầm mừng rỡ như mọi lần, cái thế giới trần ai đầy nhọc nhằn, đầy thân thiết lại trở về với lão trước tiên ở thính giác, từ đôi tai đầy nhậy bén của lão. Lão nghe được gần như cùng một lúc hai hột sương rơi trên tàu lá chuối bên hồi nhà và trên ngọn đu đủ sau nhà. Hai con chó rất khôn của nhà lão thì vẫn im hơi lặng tiếng. Nằm trong nhà, lão vẫn nghe tiếng chân chúng đi tuần ngoài sân, trong lúc chó nhà thiên hạ đang sủa ran lên. Lắng nghe tiếng chó sủa xa cứ râm ra, như cắn đuổi ma đang bắt đầu lục đục ru về các chốn gió bụi, lão đoán biết ít nhất cũng đã hai ba giờ sáng chứ không ít. Bao nhiêu thứ ánh sáng cùng cái thứ tiếng máy đằng khu công trường lớn, cả trong khe Ðá Dầu cũng đã tắt hết tiệt cả. Ðêm tối thui và sâu. Ðâu, đã từ lâu lắm lão Khúng lại mới cảm thấy một vẻ im ắng về ban đêm như thế này khiến cho lão hơi sờ sợ một nỗi sờ sợ nguyên thuỷ y như có ai lại vừa ném lão trở vào một cái làng đất sâu hun hút và tối tăm - từ ở đấy lão đã ra đời, và cũng từ đấy ông bà tổ tiên lão đã ra đời, để sinh ra lão. Biết rằng dẫu muốn thì cũng không tài nào ngủ lại được nữa, lão Khúng đã toan trở dậy nhưng cái cảm giác tối tăm nặng nề ban nãy như một hòn đá tận dưới lòng đất sâu nối với thể xác lão bằng một sợi dây rất dài vô hình cứ níu kéo không cho lão ngồi dậy. Nhưng là một con người vốn quen săn sở đối với công việc, lão đã bật dậy : sáng nay lão Khúng phải đi xuống chợ Giát bán con bò. Và lão đã rắp tâm dắt con bò đi thật sớm... Suốt đời lão, trong muôn vàn những điều bực bõ, không thực hoàn toàn thoả mãn về chính mình, có một điều thỉnh thoảng lão lại cảm thấy là không biết cách sắp xếp cho có thứ tự những thứ chứa ở trong cái đầu của lão, cũng không biết cách diễn đạt thành lời cho rành rẽ - tất nhiên là chỉ diễn đạt với mình - cái bầy ý tưởng rối rắm, tăm tối lại hay trái ngược lẫn nhau, lại đầy gai ngạnh, như nhiều đàn bò của nhiều nhà tự nhiên đem nhốt chung vào một chuồng và suốt đêm chúng nó húc nhau, rượt đuổi nhau lung tung beng cả lên, ở trong ngăn chuồng quá đỗi chật hẹp là cái đầu của lão. Lão ngồi bật dậy trên tấm phản mọt rồi lập tức thả hai bàn chân trần xuống đất lạnh cóng. Lão làm thế, một cử chỉ đầy kiên quyết và dứt khoát là theo kinh nghiệm sống của lão, nhằm để khắc phục cái sự dùng dàng phân vân trong một công việc trọng đại, nó quá trọng đại - có thể nói như thế - mà sáng nay lão phải làm, dứt khoát lão phải làm. Tì một bàn tay xuống mép phản, lão rọi cặp mắt nhìn vào bóng tối trong nhà. Lão trông thấy có một tấm lưng trẻ con nằm vắt trên miệng cái cối xay thóc kê ở gần cửa ăn thông giữa nhà ngoài và buồng trong của mụ Huệ. Lại thằng Bút rồi ! lão nghĩ. Ðây là thằng con trai út củ lão, mới lên sáu tuổi. Cái thằng "đầu bò" ấy đêm nào cũng ngủ chung với bố trên tấm phản nhà ngoài nhưng nửa đêm lại có thói quen hay rúc vào buồng ngủ với mẹ. Thằng bé thường bước chập chững vừa đi vừa ngủ, trên dọc đường nó vấp phải con chó đang nằm ngủ thì ngã nhào xuống ôm lấy con chó mà ngủ tiếp luôn cho đến tận sáng. Cuối cùng thì chẳng có lần nào nó đi tới được với mẹ mà sáng ngày ra chẳng hôm nào thấy nó ngủ ở trên giường, trên phản. Hôm thì ôm lấy cái cối xay thóc, hôm nó ôm lấy cái chổi mà ngủ. Như hai tên tuần đinh mẫn cán ở ngoài sân hai con chó vẫn ngậm miệng đi đi lại lại. Một trời sao dày như mắt sàng sáng long lanh và ướt át. Sương khuya rơi lộp bộp nặng trĩu từ trên những tàu lá xuống mặt đất chung quanh nhà vốn đã ướt đẫm sương. Lão Khúng như một cái thân cây khô đầy mấu mắt và vặn vẹo đứng im thít giữa mảnh sân một nên vôi trắng toát đang hướng mặt về phía biển, lão cùng ngôi nhà đều đang hướng mặt về phía biển, về hướng cái làng Khơi chôn rau cắt rốn của lão, của tổ tiên lão ở dưới ấy. Về hướng ấy chân trời như thấp hẳn xuống và nhoè nhoẹt trong sương luôn luôn như dội tới hai bên lỗ tai đầy thính nhậy như lỗ tai loài vật của lão những tiếng rì rào, rì rầm của sóng biển của đất đai quê nhà và mồ mả cha ông, cũng chả biết đó là những âm thanh có thực, lão nghe thấy thực hoặc chỉ là do lão đã từng nghe thấy từ đời tám hoánh nào, từ khi còn nằm trong bụng mẹ. Lão cúi khom lưng bước nhanh vào trong nhà bếp. Hai bàn tay lão sờ soạn trong góc tối. Mùi cám lợn chen lẫn mùi phân dê vừa chua lòm vừa nồng nàn xộc vào mũi lão nhưng những thứ mùi ấy đã trở nên quá quen thuộc đến mức lão chẳng ngửi thấy gì cả. Lão lôi được từ trên cái giàn tre gác bếp xuống một vòng dây chão mới và một vòng dây đã cũ. Gian bếp tối như hũ nút lão chỉ có thể phân biệt, được đấy là hai vòng dây chão mới và cũ bằng cảm giác trên những ngón tay. Trong ngày phiên chợ sắp tới lão chẳng hề có ý muốn làm đỏm làm dáng cho con bò nhà lão sắp đem bán một tý nào nhưng bằng những ngón tay lão cảm thấy cuộn dây cũ đã quá cũ, nó đã mòn vẹt, thậm chí lão có thể ngửi thấy được cả mùi mồ hôi của con vật rịn ra từ những lô chân lông ở trên hông nó trong những buổi cày ngày này sang ngày khác đã thấm vào trong cái vòng dây chão. Con khoang đen đã già yếu quá, từ lâu lão Khúng đã biết vậy. Lão biết vậy từ đầu năm ngoái. Thậm chí các bà con trong xóm người ta không nói nhưng đã biết như vậy trước cả vợ chồng lão Khúng, người ta nhận ra nó đã già lão từ năm ngoài. Con bò đã hom hem như một bà lão vậy mà cáo sợi dây chão lại cũ, không khéo người ta nhìn vào lại càng thấy nó già yếu hơn ? Lão Khúng đứng trong bóng tối và đang tính toán mọi đường hơn lẽ thiệt về cái uy thế của con bò nhà lão lúc ra đứng ở giữa chợ. Trong bóng đêm tối thui lão Khúng đứng nhìn sợi dây chão đã từng cột cổ bao nhiêu con bò, đã từng gắn bó với đất cát nhà lão, đã từng đi qua đời lão, phải rồi ngày xửa ngày xưa đấy là sợi dây chão vẫn còn mới nguyên, những sợi lạt giang mới cứ trắng tinh như lụa bện chặt vào nhau mà lão đã mang từ chợ Cày về cùng với mồ ma con vá lưng, lão đã dùng sợi dây này dòng con vá lưng tận trong chợ Cày về, và cũng trong cái bận đi tậu bò ấy, lão đã giáng cho cái thằng cha lái bò trong chợ Cày một bài học đáng đời , lão đã làm cho hắn được một mẻ ngượng ngay giữa chợ. Là bởi vì cái thằng cha bủn xỉn quá thể đã bán con bò cho lão, cầm trên tay cả một đống giấy tiền lớn cuộn tròn to bằng cả cái khăn xếp vậy mà còn định cởi ra khỏi cổ con vật cái dây chão. Vậy thì để cho lão phải cởi dải rút ra mà dắt con bò về à ? Quả thực thì sợi dây trông còn mới quá, còn mới hơn rất nhiều cái cuộn dây mới lão Khúng đang cầm trên tay bây giờ. Nghĩ thế rồi lão Khúng quay trở vào cất cuộn dây mới lên gác bếp. Lão xách cuộn dây cũ ra. Chậc, dù chỉ là cái vặt nhưng cũng phải xuất tiền ra mua chứ chả ngửa tay xin không được của ai bao giờ, lão nghĩ vậy trong khi bước qua một lối đi rải vỏ ngao từ nhà bếp ra chuồng bò. Ði qua cái chum vỡ miệng chứa nước múc dưới giếng lên, lão cầm cái gáo dừa múc nước trong chum tu một ngụm, súc miệng sùng sục. Con khoang đen đã trông thấy bóng lão Khúng ngay từ lúc lão vừa thức dậy đi qua sân vòng ra căn nhà bếp đứng đái ồ ồ rất lâu ở cái thùng đựng tro đặt sau chuồng lợn. Mặc cho trong đêm tối, con bò cũng rất dễ nhận ra hình của lão Khúng. Hơn chục năm nay, con vật đã quá quen với một cái hình dáng con người, đứng trên hai chân y như một cái cây dại tự nhiên từ trong đất mọc lên, con vật chỉ khụt khịt lỗ mũi vài cái đã có thể đánh hơi thấy từ xa mùi mồ hôi muối thân thuộc và lập tức đánh thức dậy trong trí lử u tối của nó một ý chí thuần phục đầy khủng khinh. Như tuân theo một thứ quán tính, trông thấy lão Khúng vừa đưa ống tay áo chùi nước hai bên mép vừ bậm bạch đi tới trước cửa giàn, con bò đã toan bấm móng xuống đất đứng dậy nhưng lại như một đứa trẻ quen làm nũng nó biết rằng cần phải tỏ ra khủng khỉnh đôi chút, lão Khúng cũng thừa biết vậy, lão đưa bàn tay vỗ nhè nhẹ lên cái cổ vươn dài ra ngoài then cửa nhưng khi con bò ngoan ngoãn đứng dậy, bàn tay lão trở nên run run khi buộc sợi dây chão vào cổ con vật. Lão Khúng biết rằng cái nốt buộc lần này sẽ không bao giơ cởi ra nữa, lão đang cột cái chết vào cổ con vật. Con bò già nua làm sao thấy được một giọt nước mắt của lão Khúng vừa lăn vào lớp cỏ ống nhầu nát dưới bàn chân lão trong lúc lão oằn người giang hai cánh tay thúc cái then cửa giàn về một bên để mở cửa giàn bò cho con bò đi ra. Với chiếc dây chão cũ rích nằm vắt hai vòng trên cặp sừng rồi bỏ thõng xuống một bên bả vai đã sần sùi như da cóc vì suốt đời mang ách, con Khoang đen già nua lững thững đi ra khỏi cửa giàn, bốn móng chân nó giậm lộp bộp trên nền đất bột của mùa hanh khô vương đầy rơm rạ cùng những cọng cỏ tươi đã lấm láp. Ra khỏi cửa giàn mới dăm bước, con vật liền đứng lại. Nó khụt khịt ỗ mũi đánh hơi mùi đất ẩm sương đêm lẫn mùi ngai ngái hăng hắc xông lên từ một cái quang cỏ còn nguyên vẹn nén chặt trong bốn sợi dây thép, toàn cỏ ống đã rửa sạch mà con Nghiên, đứa con gái áp út của lão Khúng vừa đi cắt tận trong chân núi, lúc nhập nhoạng tối. Con vật thè cái lưỡi ram ráp bứt một ngọn cỏ trong chiếc quang nhai trệu trạo giữa hai hàm răng trắng nhởn, liên tiếp giậm bốn móng xuống đất tỏ ý ngạc nhiên chứa đầy bất mãn đối với lão Khúng vì nó cảm thấy đêm vẫn còn sâu sao mà lão Khúng đã lôi nó dậy đi cày sớm quá. Nhưng rồi như một thói quen mỗi buổi sáng ra ruộng, con khoang đen già nua ngước mõm lên trời kêu lên một tiếng "ngọ" khàn khàn đầy não nề làm rung chuyển màn đêm. Cũng theo thói quen mỗi lúc ra ruộng, lão Khúng đánh con bò ra khỏi giàn liền chạy đi nhặt một chiếc rỗ thưa bật vành dính đầy tro lẫn phân bò khô đem đặt giữa hai chân sau của con vật. Ngay từ khi con khoang đen đang còn là một con me mới ra đời 14 năm trước, nhìn tướng mạo lão Khúng đã lấy làm bằng lòng khi trông thấy cái xoáy chỗ mút mông lão biết suốt đời con vật sẽ ỉa trước khi ra đồng, lão nuôi nó sẽ không bao giờ mất phân, hơn nữa, cái cuống đuôi không tròn vo mà bèn bẹt như đầu con cá chai : con vật sẽ ban thưởng cho lão sức lao động của nó, những hòn phân ra hòn phân cứ chắc nịch chứ không bao giờ ỉa té re. Lão đứng trước cửa giàn lơ đễnh nhìn những ngôi sao trên trời chờ con bò đại tiện và lấy làm tiếc từ nay nhà lão không còn nguồn phân ngồn ngộn của con khoang đen để hằng ngày hót đổ xuống cái hố ủ bên cạnh giàn bò nữa. Hai cánh mũi hít hít cái mùi phân vừa trút ra khỏi cơ thể con vật còn nóng ấm và đầy nồng nàn đang tan vào không khí về sáng hơi giá buốt, lão cầm đầu dây chão dắt con bò ra chỗ gốc cây vối ngoài đầu ngõ, ở đấy một chiếc xe bò bánh lốp ô tô đậu nép bên hồi nhà bếp chỗ đầu hồi hơi nhô ra, nơi đặt chiếc cối giã gạo đạp bằng chân, hai bánh lốp ôtô của chiếc xe bò được quấn một sợi dây xích cột vào bên chân cối giã gạo. Lão Khúng nhìn qua một đống củi lẫn những bó chè xanh chất cao lù lù trên thùng xe, trông thấy một mái đầu bịt khăn quàng đen đang ẩn hiện ở bên kia chiếc xe, lão hơi giật mình biết là mụ Huệ đã thức dậy, vợ lão đã thức dậy cùng lúc với lão trong cái giờ phút trọng đại vĩnh biệt con bò. Mụ Huệ không hề lên tiếng cứ như người ngậm tăm, lão cũng vậy. Lão đứng hơi né ra một bên khi người đàn bà đi tới gơ tay cầm lấy một bên chiếc sừng nhẵn bóng, dắt con vật sang bên kia thành xe. Lão Khúng đi quanh một vòng thít lại sợi dây mây chằng những bó củi rồi ra chỗ gốc vối ngồi xổm xuống, kẹp chiếc điếu cày giữa hai đầu gối, những ngón tay tự nhiên tê cứng run rẩy mãi mới châm được mồi thuốc lào vào cái nõ điếu bằng gỗ thị. Lão ngó nhìn chung quanh một lát mới bật cái bật lửa, thu thu ngọn ửa trong tà áo để khỏi rọi ánh sáng vào nhà khiến lũ con có thể tỉnh giấc vào lúc này. ánh sáng từ chiếc bật lửa trên tay lão rọi một khoảng trăng trắng trong lòng chiếc chậu sành da lươn. Trước mặt lão, mụ Huệ ngồi xổm còn con bò đang đứng sung sướng thè lưỡi liếm thứ cháo nếp đặc sánh vô cùng thơm ngon mà mụ Huệ đã nấu sẵn từ đầu hôm. Nó có cái gì giống như bữa tiệc thết người trước khi bước lên đoạn đầu đài. Con bò già nua ăn chậm chạp, chiếc cổ cúi xuống gần như không động đậy, chỉ có chiếc yếm đã nhẽo ra hơi run rung, thỉnh thoảng con vật lại đưa chiếc lưỡi ram ráp liếm ngược lên theo thành chậu rồi âu yếm liếm trên hai bàn tay đã dăn deo vì lam lũ của mụ Huệ đặt thõng trong lòng chậu cháo. Chờ cho con bò ăn xong, mụ Huệ đưa bàn tay vẫn còn dính những hạt cháo nếp vuốt ve nhiều lần lên cổ con vật, đoạn dắt nó đến bên càng xe. Lão Khúng vội vã chạy tới vứt chiếc điếu cày lên đống chè xanh trên nóc xe đoạn cúi gò lưng nâng bổng cả hai chiếc càng xe lên khỏi mặt đất, đặt chiếc ách gỗ mặt trong đã mòn lõm vào cổ con vật. Hai vợ chồng lão Khúng đứng nhìn con bò rồi nhìn nhau một lúc trong đêm vắng. Cả hai vẫn lặng im. Lão Khúng biết không thể dùng dằng được nữa, không phải dùng đằng đối với mụ Huệ mà chính lão sợ con Nghiên và thằng Bút ngay lúc này trong nhà thấy động chúng thức dậy. Ai chứ thằng Bút, thằng "đầu bò" sẽ nằm lăn quay ra trước xe, thậm chí ôm chặt lấy ha chân trước của con bò không cho bố đem đi đâu cả. Nhất là con Nghiên, năm nay mới 9 tuổi đầu nhưng từ hi biết cầm cái lềm, là đứa con gái bé nhất của lão đã biết ngày ngày chăm chỉ đi cắt cỏ, mỗi ngày một gánh đầy, để cho con khoang đen ăn no để đi cày, có hôm nó đi cắt tận trong khe núi giáp Diễn Châu, gánh gánh cỏ đi lạc mãi trong những dãy núi, vừa sợ, vừa đói chín mười giờ đêm mới tìm được đường về làng. Lão hấp tấp trèo lên ngồi chênh vênh trên thành xe, kêu lên những tiếng "hầy, hầy" đầy gắt gỏng. Nhưng đâu có phải chờ lão giục, con bò đã vươn dài cổ kéo chiếc bánh lốp đã mòn vẹt lọc cọc lăn qua trước mặt Huệ đang đứng câm lặng bên gốc vối. Ra khỏi nhà một đoạn, lão nhảy xuống. Con đường dốc sục lên những đất bột tự nó kéo chiếc xe lăn tuồn tuột xuống dốc. Lão Khúng bước cao bước thấp, hai tay cố níu giữ chiếc xe đi chậm lại, lão quay ngoái cổ, bằng con mắt con vật, nhìn một lần cuối cùng ngôi nhà với cái dốc tường hình tam giác trắng nhờ nhờ in bật trên nền trời sao đêm về sáng đang nhấp nháy liên hồi, bỗng giật mình chợt nhìn thấy bên gốc vối không phải chỉ có một mình vợ lão mà còn thêm một cái bóng bé bỏng, trời ơi, con Nghiên ! con Nghiên ! sao nó biết mà dậy ? Lão Khúng thấy vướng vức trong lòng vô cùng. Suốt tối qua, chiều qua và cả ngày hôm nay, cả hai vợ chồng lão đã đồng lòng giấu biệt không cho lũ con biết sớm nay sẽ đem bán con bò của nhà. Vậy mà đứa con gái đã biết mà thức dậy, đứa con gái hai bàn tay lúc não cũng sây sát ứa máu vì công việc cắt cỏ cho con bò ăn để đi cày. Thực ra con bé thức dậy tự lâu lắm, trước lão Khúng và dường như là suốt đêm đêm nó không ngủ. Con bé lên chín sứt răng, bằng mối mẫn cảm đặc biệt của dòng máu gia đình nông dân, nó biết tính toán rồi ra trước sau không còn cách gì khác, nhà nó cũng phải bán con khoang đen đi để lấy tiền cho bố đi vào Ðắc Lắc một chuyến nữa, để làm nhà làm cửa cho vợ chồng anh Lạc nó đang đi "kinh tế mới" và đang gặp khó khăn ở trong đó, trong đó là câu ? Ðắc Lắc, Ðắc Lắc, cái xứ đất rất xa lạ ngoài sức tưởng của nó, ngoài tầm tay với đầy tình thân yên nhưng ngắn ngủi của nó đối với người anh mà cứ mối lần có ai đang nói chuyện nhắc đến hai tiếng Ðắc Lắc là con bé dỏng tai lên nghe hóng, không khỏi mủi lòn bùi ngùi sực nhớ ngay đến vợ chồng anh Lạc, người hiền như đất, tính tình như con gái mà nó thân nhất nhà, thương nhất nhà. Hồi tháng một
năm ngoái lão Khúng đã đi thăm con một chuyến
trong Ðắc Lắc, về cái công chuyện này cũng có
đôi lúc lão Khúng nghĩ mà lấy làm buồn rầu.
Dù sao đời lão đã phải bỏ làng xóm, bỏ mồ mả
tổ tiên ở dưới biển để lên tận đây, cái
miền ngược ma thiêng nước độc này để khai
khẩn đất cát kiếm miếng sống, lão vật lộn với
miếng đất rừng này đến giờ đã gọi được là
tạm mát mặt, hòn đất đã bớt đi rất nhiều mầm
cỏ dại, hòn đất đã gần hoá thành hòn đất
thuộc, lão đã tưới đến gần cạn kiệt mồ hôi
cho mảnh đất này thì đời con lão lại phải bỏ
đây để đi đến những miền khác, những miền
rừng khác xa xôi hơn, mịt mùng hơn. Chả lẽ đời
của lão, cái số phận của lão, của vợ chồng, con
cái lão là phải như vậy, cứ phải như vậy ? Ôi,
lão Khúng nghĩ, giá không phải chạy theo đưa con
để bù trì nâng giấc cuộc sống ban đầu cho nó
ở cái nơi đất khách quê người chắc chắn hôm
nay lão không phải rong con khoan đen xuống chợ
Giát từ nửa đêm thế này ? Mà cái con khoang đen
nó đã già gì, vẫn Lão Khúng đứng làm cái phanh xe hồi hộp đợi đứa con gái chạy xuống và trong bóng tối lão trong thấy chạy phóng lên phía trước đứa con gái là hai con chó nổi tiếng của gia đình lão : con mực và von vàng. Chẳng hiểu sao hai con chó cũng trở nên đầy quyến luyến đối với con bò, chúng chạy quẩn quanh chân con bò, hai con vật giữ nhà đưa mũi hít hít trên những chiếc óng sừng của con vật kéo cày, trong lúc con Nghiên nước mắt giàn giụa sụp xuống ngồi xổm dưới tấm yếm thõng thẽo, rồi con bé xoã cả mái tóc ngắn đỏ quạch chưa kịp cặp lại bằng chiếc cặp ba lá từ khi nhảy choàng ra khỏi giường, để cho mái tóc trùm lên đầu, lên cổ con vật, hai bàn tay bé nhỏ không ngừng vuốt ve hết mũi miệng, đến đầu cổ con vật. Con bò cũng tỏ vẻ buồn bã, hay là đên lúc này bằng bản năng loài vật, nó đã cảm thấy được nó đang đi chuyến đi cuối cùng của đời nó, giữa đêm khuya ? Con Nghiên chừng như không còn chịu đựng nổi nếu đứng mãi bên con vật mà suốt đời nó chăm sóc, con bé liền chạy lại gục đầu vào ngực bố bởi nó biết chính lúc này bố nó cũng đang đau khổ vì phải đem bán con bò. Lão Khúng đưa
một bàn tay lên vuốt vuốt trên phiến lưng gầy
guộc của đứa con gái chăm làm nhất nhà. Lần
đầu tiên lão nhận thấy từ mái tóc và hơi thở
của đứa con gái nhỏ phả Y như thế ngày
ấy mặt đất đâu đâu cũng là rừng rú, người
thì ít lác đác, quá ít, chỉ có một gia đình
lão do táo tợn mới dám chạy lên lập nghiệp, ấy
thế vậy mà cái sợ lại không nhiều như bây giờ.
2 Ngồi một mình,
lúc này lão Khúng đang nghĩ đến cái lúc nay mai
lão phải báo tin đã bán con bò khoang đen cho
tất cả chín đứa con của lão biết, từ thằng Bút
đứa con trai út đầy dại dột cho đến con Hương
đang học lớp 12 dưới phố Cầu Giát, cho tới
thằng Ðoan, con Lê nửa ngày đi học nửa ngày đi
làm với vợ chồng lão ở nhà, rồi những đám vợ
chồng thằng Dũng, đang ở trong tỉnh, vợ chồng
thằng Lạc ở tận Ðắc Lắc. Ôi, mới đáng sợ làm
sao, cả một thời trẻ thơ của từng đứa con lão
cũng như cả một đời làm lụng vất vả trong gia
đình của từng đứa một đều gắn bó với con vật
này, đã từng chăn dắt đùa nghịch với con vật
rồi đi cày đi bừa, thức khuya dậy sớm, con khoang
đen này suốt 18 năm nay đã trở thành một người
trong gia đình lão, một thành viên trong gia đình
lão, dường như đến tận bây giờ lão mới thấu
hiểu rõ cái điều hiển nhiên này. Có đi nhanh
lên không nào, lão Khúng lấy làm bực mình vô
cùng lên tiếng quát thật lực, đi nhanh lên ! rào
bước đi nhanh lên, mà chết cho sớm sủa ! để cho
người ta nện một búa vào đầu mày cho nhanh lên,
đồ quỷ ạ ! Rồi đến lượt tao, tao cũng phải
tìm cách "báo cáo" với chúng nó, với
những đứa con trai lẫn con gái của tao rằng tao
đã phải bán mày, rằng từ nay trong nhà không
còn mày nữa, rằng tao đã giết mày ! Mà mày
cũng đã già nua tuổi tác rồi chứ chả còn là
thiếu nữ hay nạ dòng gì nữa, ông trời sinh ra số
kiếp mày đã như thế, suốt cả một đời nai lưng
kéo cày, già thì giết thịt ! Có ai để cho một
con bò già rồi chết để làm đám tang cho thật
to, thật linh đình bao giờ ? * Trong thế giới bao
la giữa đêm tối sâu thẳm tĩnh mịch, chỉ những
ngôi sao xanh ngời ngời và ẩm ước đang nhấp
nháy tận đỉnh trời là có thể nhìn thấy hai
giọt nước đặc quánh như một thứ chất đầu
đang dâng lên tận trong khoé mắt lão Khúng. Lúc
này bằng những lời nói âm thầm từ trong lòng
lão, lão đang báo tin việc bán con bò với thằng
Dũng, "báo cáo" cái việc này với đứa
con thứ hai của lão đã hy sinh trên chiến trường
Cămpuchia cách đây hai năm. Ðấy là thằng con
trai đích thực mang dòng máu thay đổi, lão đâm
ra hay nghĩ, không hùng hục chỉ biết làm như
trước. Sau khi nỗi thống khổ đã dần dần qua đi
nhưng vẫn âm ỉ như một đợt sóng biển phủ vào
đất liền đã rút nhưng vẫn để lại cái chất
mặn làm xót cây khoai, cây lúa, dường như là
lần đầu tiên lão nghĩ đến nỗi nhọc lòng mà
từ nay đời lão phải gánh chịu : một nỗi đau
đớn không bao giờ nguôi quên vì cái chết của
thằng dũng. Ðiều này chỉ có mụ Huệ là người
có thể thấu hiểu hết được cõi lòng của lão.
Ðó là một buổi chiều cách đây hai năm, lúc ấy
đã nhập nhoạng tối, chỉ còn một mình lão với
con khoang đen ở nán lại bên một đống đá xếp
vuông vức bên bờ một mảnh ruộng mới khai phá
tận trong khe Ðá Dầu. Lão gắt mù lên với cái
con vật lúc bấy giờ có cái gì làm nó sốt ruột
cứ lồng lên kéo chiếc xe chở đá về nhà. - Họ... họ...
Khoan đã nào ! Mày tưởng tao không biết đói
bụng đấy hử ? Có lẽ suốt đời
lão sẽ không bao giờ quên được cho nổi mấy cái
tiếng ấy, nó sao mà xót xa, não nề và đầy bất
lực của đứa con gái đứng gục đầu vào gốc cây
vối với hai con mắt trợn ngược lên như hoá dại
trước ngõ, đang nói lên cái lời báo tử cho
người anh của nó ngay trước ngõ. Cũng vào trong
lúc bấy giờ lão chợt nhận ra rằng, lúc này, lão
phải làm một cái cột chống ở trong nhà. Mọi sự
như thể và đại thể lão đã hiểu. Vợ con đầu
đã ngã gục xuống cả thì lão càng phải đứng
thẳng. Lão đứng tại chỗ một lát để định thần
lại, khi đã đỡ hoa mát rồi quay trở xuống dốc
bằng những bước bình thản, lão cúi xuống lấy
hết sức liên tiếp bắt bánh giúp con khoang đen
lúc bấy giờ đã gân ngã gục xuống lôi chiếc xe
đá nhích dần lên. Rồi vẫn bằng những bước đi
bình thản, lão đi vào nhà. ở trong nhà bếp vợ
lão ngất đi, vừa tỉnh lại được và cái anh bộ
đội lạ mặt mới hỏi thăm đến nhà lão Khúng
cách đây chưa đầy nửa Ngày thường, những người trong xóm "Thống Nhất" vừa muốn đi lại chơi bời với gia đình lão Khúng lại vừa có ý e ngại, hơi xa lánh. Với cái thứ tính nết chật chưỡng đầy trái khoáy của lão Khúng, người ta chỉ muốn tránh nhưng nói cho công bằng thì cũng chẳng ai nỡ tâm ghét lão bởi xét cho đến cùng thì lão cũng không phải con người lèo lá, nhớp bụng, tham vặt hoặc độc địa, độc ác. Lão chỉ có một cái tật là chẳng giống ai, lão là lão Khúng, chỉ đáng trách có thế. Ngoài ra ngày mụ Huệ hãy còn trẻ mụ đã làm đám đàn ông trong xóm phân tâm không ít, đám đàn bà trong cả xóm khai hoang sinh lòng ghét, cũng chả phải mụ lẳng lơ (lẳng lơ gì với những lão đàn ông vốn là chồng của các mụ người nào cũng đầy tục tằn và bẩn thỉu) mà chỉ vì mụ Huệ đi đâu, đứng đâu cũng như một bằng chứng để cho đám đàn ông phân tâm, ngơ ngơ ngẩn ngẩn. Trong cái buổi chiều tang tóc đổ ập xuống mái nhà của lão, nếu không có bà con láng giềng trong xóm xúm vào giúp đỡ thì lão lúng túng quá. Guồng máy lao động của cái gia đình ấy xưa nay như một cỗ máy tra kỹ dầu mỡ. Thế mà trong khoảng khắc đã gãy vụn, vợ lão Chắt Hoè, bây giờ là chỗ thông gia với gia đình lão Khúng, phải cùng với mấy mụ đàn bà khác ra tay cho lợn cho gà ăn rồi chạy ra các góc vườn hoặc xó buồng, lôi ra những đứa con của lão Khúng trở dậy, vỗ về dỗ dành chúng. Lão Khúng tỏ ra
cứng cỏi nhưng cố lắm lão cũng chỉ giữ được
cái vẻ bề ngoài. Cho tận đến sáng ngày hôm sau
lão mới biết xẩm tối hôm qua, lúc tháo ra khỏi
chiếc xe đá lùa con khoang đen vào chuồng, lão
đã lú lẫn quên cài then, thậm chí quên cả cho
con bò ăn, suốt đêm con vật phải nhịn đói
không có được cọng cỏ nào vào bụng. Anh bộ
đội người Thanh Hoá, bạn thân của thằng Dũng
đã cùng mấy anh em trong tiểu đội chôn cất đứa
con trai lão Khúng trong một khu rừng Tây Bắc
Cămpuchia giáp nước Thái Lan, việc ấy xẩy ra đã Lão Khúng xách
chiếc rựa ra bụi tre sau nhà chặt một cây vác
vào ngồi chẻ ra, đan một tấm phên để thiết lập
cái bàn thờ thằng con trai thứ hai bên gian trái.
Lão đã làm xong cái bàn thờ đứa con. Lão ngắm
nghía cái công trình đơn sơ vừa hoàn thành sau
hi trải lên mặt tấm phên tre mảnh ni lông màu
đọt chuối mà con Nghiên thường dùng khoác đi
cắt cỏ, lại bày lên mặt tấm ni lông một cái
bát sành đựng gạo. Vợ lão từ nhà bếp lên, ngó
cái bàn thờ mới rồi ngó sang lão Khúng bằng cái
nhìn trân trân, vô hồn, không còn là hai con mắt
của mụ Huệ mọi ngày mà là hai cái vực thẳm
người ta vừa tát cạn hết nước. Lão Khúng thầm
cám ơn vợ ; mấy ngày qua mụ Huệ đã không hề
thốt lên, dù rằng chỉ thốt lên qua tiếng khóc
kể lể cái cơn bốc đồng của chí khí ái quốc
của lão ngày ấy - từ đó thằng Dũng mới nắm
lấy mấy câu khích lệ đầy cao hứng của bố để
đòi đi bộ đội cho kỳ được. Thực tình thì
ngày ấy trong nhà đã có thằng Hùng, thằng anh
đang ở lính, nó xung phong đi là chính chứ có ai
bắt, và ngày đó một mình mụ Huệ không làm sao
mà ngăn cản, cầm chân cầm tay cái thằng Dũng
của mụ. Chính vào lúc này lão Khúng cũng phải
tự gồng mình lên để cố giữ lấy trong người
lão cái ý nghĩ rằng thằng Dũng đã hy sinh vì
Tổ quốc. Cái ý nghĩ ấy như một tấm ván lát
cầu ao đã lâu năm vừa nhún nhẩy vì mỏng manh
lại vừa hay trùng triềng. Lão chỉ lơ là một
chút, lãng quên đi những điều tâm niệm thiêng
liêng chỉ một chút là lập tức xỉa chân xuống
và nỗi niềm âm thầm của cái sự thực trần trụi
và đơn giản. Trong một thoáng chốc, lão đâm ra
sợ cả chính mình, như một con chiên sợ đánh
mất đức tin lão đã đánh mất đứa con, lại
đánh mất luôn cả những ảo ảnh về nó. Con ơi,
giá những ngày còn sống bàn thờ của con lúc
này. Bố sẽ xuống phố cầu Giát thuê người ta
phóng đại, tô màu, cái bức ảnh sẽ mãi mãi
suốt đời đem đến cho bố nỗi khuây khoả và
niềm vinh dự... Hiệu ảnh ở dưới ấy thiếu gì mà
bố cũng thiếu gì tiền ? Hồi ở nhà mày hay trêu
bố keo kiệt nhưng trong cái việc này... phóng
đại, tô màu một bức ảnh anh bộ đội đã hy sinh
ở trong nhà... * Lão lục tung mớ giấy má của gia đình cất trong một đoạn ống bương có nắp đậy và vẫn còn giữ được nguyên vẹn cả một đoạn dây đeo bằng bả có thể choàng qua vai - vật còn lại của quãng đời nông ngư xam bán thỉnh thoảng "đi nghề" ra biển đánh cá, trong những năm lão hãy đang còn trẻ trai ở dưới làng Khơi. Bỗng lão Khúng sực nhớ ra chiếc ba lô của thằng Dũng do anh bộ đội người Thanh Hoá đã mất công phu khoác về từ bên nước Cămpuchia cho gia đình lão. Mấy ngày nay lão đã cẩn thận đem cất trong một cái chum đựng khoai lang khô tận trong buồng vợ và lão quên khuấy đi. Lão vội vã chạy vào trong buồng mụ Huệ ôm cái ba lô ra nhà ngoài. Lão tin chắc thế nào cũng tìm thấy một bức ảnh của thằng Dũng thật đẹp, thật oai phong, đàng hoàng, trong bộ quân phục mới là thẳng nếp. Nhưng lão Khúng chỉ thấy dội lên tận đáy lòng một nỗi đau xót tận lúc này lão mới có dịp nhìn kỹ cái kỷ vật vô cùng quy báu của đứa con đã chết để lại : cái ba lô sao mà bẩn thỉu, rách rưới, y như chiếc đẫy của đứa ăn mày, không cầm lòng đặng lão bật lên một tiếng khóc hu hu, kêu lên một tiếng rồi im bặt, lẳng lặng lôi các thứ đựng bên trong ra. Chẳng có gì ngoài vài cái quần, cái áo bộ đội cũng đã cũ rách và hôi hám như chiếc ba lô, một mẩu sắt tây hình tròn chạm hình một vũ nữ Cămpuchia đứng múa uốn éo, cùng với một đôi đũa mà chắc con lão đang vót dở bằng một thứ gỗ gì dó hết sức lạ lùng, thớ gỗ nhỏ mịn và rắn như đá, màu đỏ sậm. Lão cắp cái đẫy lính vào bên nách, xăm xắm bước ra ngõ. Trên dọc đường
lúc băng qua ruộng lúa qua xóm, lão chả thèm
nhìn ai, gần như chả trông thấy ai, người ta
chào hỏi, lão cũng làm thinh. Lão đi thẳng đến
trụ sở xã. Hai dẫy nhà nằm theo hình thước thợ
cửa giả mở toang, cả nếp nhà trên đứng trên
bậc thềm cao lẫn dãy nhà dưới chất một đống
cây lạc, đứng ngoài ngó vào chỉ thấy những
chiếc ghế băng cùng với những cái nồi nhôm
đựng bã chè xanh vứt lăn lóc. Một cái mặt
người vừa mảnh vừa khô như chiếc lá tre rụng
ló ra giữa đống cây lạc. Lão Khúng nhận ra ngay
là lão Kẹp chồng mụ Hái, giữ chức trách giao
thông của uỷ ban kiêm đóng, mở cửa trụ sở.
Trông thấy chồng mụ Hái, không biết nghĩ thế
nào lão Khúng liền quay ngoắt trở ra và cứ thế
hai chân bước thẳng một mạch trở về nhà. Vứt
cái đẫy lính bẩn thỉu ra giữa thềm, lão chạy
vào nhà xách ra chai rượu trắng cùng với hai
chiếc chén. Lão rót ra đầy cả hai chiếc chén,
nhón những ngón tay đẩy về phía trước mặt một
chén, miệng lầu bầu : Chừng như lão
đã say. Ngồi tựa vào bậc cửa ngay trước dải
thềm nhà, lão cầm mân mê trên bàn tay khô rám
của lão đôi đũa mà con lão đang vót dở, ừ,
một đôi đũa dùng ăn cơm cũng như đũa con lão
dùng ở nhà, nhưng đây là một đôi đũa vót
bằng cái thứ gỗ màu hồng rắn như đá, thớ gỗ
mà y như thớ đá đầy, nhỏ mịn, và lão nghĩ
đến cái đất nước Cămpuchia lạ lẫm có thứ
đất mọc lên giống cây gỗ lạ lẫm này - ở đấy
con lão đã chiến đấu và đã ngã xuống. Giữa
lúc ấy, Mụ Hái từ đưới bếp đi lên trông thấy
cái người bố đau khổ đang ngồi gục đầu xuống
đầu gối, đôi đũa bằng gỗ hồng sắc để rơi
dưới chân - Bỗng lão Khúng như bừng tỉnh ngủ
ngước lên nhìn người đàn bà bằng hai con mắt
trống rỗng vằn đầy tia máu từ đó những giọt
nước mắt rơi xuống lã chã. 3 Trên mặt đất
mênh mông vô tận này có ai vừa mới chết, hoặc
sắp chết ? Ngôi sao vừa sa xuống đó chắc hẳn
không phải là điềm trời báo hiệu rằng con khoang
đen nhà lão Khúng sắp "tử". Lão tin
chắc chắn như thế, bởi lẽ Nam Tào, Bắc Ðẩu hoạ
là có rỗi rảnh lắm lắm mới làm cái việc ấy.
Mà cũng không bao giờ người ta ban đặc ân cho
con khoang đen cả một ngôi sao chiếu mệnh, mặc
dầu nó đã có công cày vỡ bao nhiêu là đất
cát, điều ấy chỉ có lão Khúng mới biết. Hay
ngôi sao sa vừa rồi là ngôi sao của con lão, đấy
là vệt đường đi về cõi trời của một người
anh hùng cứu quốc, của chính thằng Dũng cầm súng
chiến đấu ở bên chiến trường Cămpuchia ? Cũng
chắc không phải, lão nghĩ tiếp, trên thực tế
thằng Dũng đã chết một năm rưỡi nay rồi cơ mà
? Hay là điềm trời báo trước cho lão biết : lão
sắp chết ? Tuy thế lão Khúng
vẫn ngửa mặt lên trời, rọi mắt lục tìm khắp
bốn phía chân trời với một sự tò mò vừa kính
cẩn vừa có ý khinh xuất. Lão ngắm kỹ lưỡng một
vài đốm sao sáng xanh, những vì sao to nhất, sáng
nhất, và lão đinh ninh đấy là những ngôi sao
định mệnh của các vị vua chúa hoặc lãnh tụ.
Chao ôi, cả một trời sao trên đầu, càng nhìn
càng thấy lắm, trong khi ấy thì ở dưới mặt đất
vào lúc này dường như chỉ có một mình lão và
con bò đang thập thõm, mò mẫm đi giữa mặt đất
bao la và tối tăm. Bất giác trong khi
vẫn ngửa mặt lên trời hứng bóng tối dày đặc
và một làn gió đêm lạnh buốt, bỗng lão không
kìm được, tự nhiên bật lên một tràng tiếng
cười khùng khục từ trong cổ họng, khiến cho con
bò đang đi phải dừng lại. Lão không dùng doi mà
đưa tay đét một cái vào giữa cái chỗ uốn vồng
lên của cuống đuôi con vật : * Một lần nữa lão quay nhìn về phía ngôi sao vừa tắt, vừa rơi tõm vào bóng tối như đốm lửa trên đầu que đóm hút thuốc lào. Lão phỏng đoán có lẽ đây cũng chỉ là một ngôi sao be bé, vừa phải, hay đấy chính là ngôi sao chiếu mệnh của đồng chí bí thư huyện uỷ nổi tiếng vừa mới đây đã thôi ngồi chiếc ghế ấy. Quả có vậy thực thì đáng buồn thay và có lẽ đấy là luật lệ mới ở trên đời : người có chức quyền không còn giữ được chiếc ghế nữa thì sống cũng như chết, ngôi sao chiếu mệnh cũng tắt ? Thực tình mà nói, tận cho đến lúc này lão Khúng cũng không hiểu mình yêu hay ghét, ưa hay không ưa cái con người quyền uy lớn nhất huyện, quen thân với Tổng Bí thư Ðảng đồng thời lại rất thích lão Khúng, coi lão như bạn. Về phần lão
Khúng, mặc dầu ông Bời lúc nào cũng tỏ ra thân
mật, bình đẳng nhưng riêng lão Khúng bao giờ
cũng để một khoảng cách với kẻ bề trên. Tuy
vậy, lão Khúng cũng có phần bái phục con người
ấy, đầy trái ý, đầy hoài nghi nhưng vẫn phải
bái phục. Con người lãnh đạo ấy xuất thân là
dân buôn bò, cũng là anh nông dân từ chỏm tóc
đến gót chân như lão Khúng vậy mà không bao
giờ thèm nghĩ những điều nhỏ mọn, tủn mủn như
lão Khúng. Lão Bời toàn nghĩ những cái to tát
phải dùng tới hàng trăm hàng nghìn người làm
cật lực với những cờ quạt trưng ra rợp trời.
Lão thích đông người, thích náo nhiệt, rất
lãng phí sức người, làm hỏng cũng nhiều mà làm
được cũng lắm. Cái gì lão làm được, dân
đều biết cả ! * Từ thuở "hàn
vi" khi đang còn làm chủ tịch huyện ông Bời
đã thích kết thân với lão Khúng. Ngay từ ngày
đầu, lão Khúng cũng đủ khôn để biết thế cho
nên thực ra lão cũng chỉ tranh cãi giả vờ, không
bao giờ lão chịu nói ra ý nghĩ thực của lão với
chủ tịch huyện. Mà cũng chính vì thế cho nên
mối dây quan hệ bè bạn giữa lão với người cầm
quyền còn giữa mãi được đến tận bây giờ. Tuy
thế, trong con mắt nhìn của lão Khúng đó là
những thời kỳ mà con người ấy thật đáng mến
vì người ta còn ít sợ. Ngày ấy ông Bời rất
"mê" con khoang đen, ngày ấy ông Bời
đang còn biết yêu trâu bò, súc vật. Vừa ngủ gà
ngủ gật, lão Khúng đang nhớ lại những năm mới
hoà bình chống Mỹ xong, cả huyện đang xúm vào xe
cát làm đại công trường thủ công xây dựng
đồng muối Quỳnh Thuận để cứu đói cho mấy ngàn
dân biển : trâu bò trong toàn huyện đã kéo về
tập kết ở đấy - mà ông Bời đặt tên là cuộc
hội quân lớn về sức kéo. Phải, hồi bấy giờ
thằng Dũng hãy còn nhỏ, là một đứa chúa nghịch
ở trong xóm, con khoang đen tuy đã đẻ vài lứa
nhưng trông vóc dáng bề ngoài còn là một ả gái
tơ đầy quyến rũ và cũng không hiểu sao y như
thường xẩy ra với những người đàn bà đặc
biệt hấp dẫn đàn ông - những lão bò đực đầu
đàn đầy hung dữ của ngoài chục xã cứ lăn xả
vào mà húc nhau, rượt nhau, gây ra những trận
kịch chiến khủng khiếp để quyết giành lấy con
khoang đen cho kỳ được. Cũng từ ngày sinh ra
đời chưa bao giờ con khoang đen và thằng Dũng
được sống dưới bầu trời rộng rãi và náo nức
là thế, trong một khung cảnh lao động lãng mạn
là thế - một công trường thủ công - đúng như
tên trong các sách vở của Mác thường nói và
chủ tịch Bời là người đã có công biến thành
sự thực nhãn tiền : khắp mọi xó xỉnh trong cả
huyện, đàn ông, đàn bà, người già, trẻ con
được điều về đông nghìn nghịt, người đã
đông mà trâu bò lại càng đông hơn ; dân các
xã cùng trâu bò trước khi kéo quân về đã
được phiên chế thành cơ ngũ : tiểu đoàn, trung
đoàn, sư đoàn đâu ra đấy với các vị tư lệnh
cùng chính uỷ, kèn tiến quân, kèn lui quân,
trống cái, trống ếch, cờ đuôi nheo, cờ lá
chuối, cờ rước thần, cờ đỏ sao vàng, những phù
hiệu cấp chức bằng vải, bằng giấy loè loẹt trên
các bả vai và ống tay áo, loa phóng thanh từng
buổi, từng giờ vang vang công bố cho toàn công
trường những kỷ lục năng suất. Sau ba tuần lễ
tắm mình trong không khí đại công trường, hai
cha con lão Khúng cùng con bò được trở về nhà.
Hai cha con cùng với con vật về đến truông ách
thì gặp chiếc xe của chủ tịch huyện cũng đang
ngược dốc đi lên. Lúc bấy giờ lão Khúng trên
dọc đường đang cáu. Lão đang tiếc của đến
đứt ruột cho nên cáu gắt ầm ĩ. Ông Bời phóng
xe com măng ca vượt lên trước, ngoái về sau
trông thấy một lão già xương xẩu và gân guốc
từ trên chiếc xe bò bánh Máu mê dân buôn
bò sống lại trong ông chủ tịch huyện, ông đi
thêm mấy vòng để nhìn kỹ dung nhan phía trước
mặt, càng nhìn càng ưng ý không thể chê được
một nét gì. Ông Bời mặt mũi
mồ hôi, hai chân đi ủng dậm lộp bộp xuống mặt
đường, ngó người đối thoại đầy tò mò và
kính cẩn như ngó một người đã có công khai
sơn lập địa của thời hồng hoang vừa mới hiện
về đang đứng trước mặt. Hai tháng sau, vào
thời vụ cày vỡ đất của Hùng Tráng, tháng vất
vả nhất của trâu bò và người đàn ông trong gia
đình, ông Bời đánh xe lên thẳng nhà ông Khùng,
tuyên bố sẽ ở nhà lão khoảng một tuần lễ để
học cách làm ăn, cùng ở, cùng làm với gia chủ.
Lão Khúng ban đầu đã chả tin một tí nào. Và
cả nhà lão cứ sớn sác, lo sợ, tưởng lão vừa
mắc vào cái tội gì to tát đến nỗi ông chủ
tịch huyện phải thân hành đến tra xét. Mụ Huệ
vội vã tuồn những chiếc bong bóng lợn chứa đầy
rượu lậu giấu dưới đáy mấy cái chum ở trong
buồng mụ sang nhà hàng xóm để giấu. Bữa cơm
đầu tiên, mụ Huệ xua được một con gà mái vào
nhà bếp, túm lấy hai cẳng, đã toan cắt tiết thì
lão Khúng giơ tay ngăn lại : "thường ngày
nhà mình ăn thế nào thì dọn cho ông khách ăn
vậy. Như thế mới là ba cùng" - lão giải
thích ý nghĩa công việc của vị khách cho vợ
hiểu - nhưng mụ Huệ vừa thả con gà ra lão đã
chộp lại, đề nghị mụ cứ cắt tiết. "Chậc,
phàm là con người ai chả thích ăn ngon ? Chưa
thể biết rõ hết mục đích lão đến ở nhà mình
để làm gì thì hãy thết lão một bữa cơm thịt
gà cái đã. Một ông chủ tịch huyện Thế là suốt một tuần lễ, mọi sinh hoạt trong gia đình lão Khúng bị đảo lộn lên hết. Từ thằng Bút, hồi ấy bấy giờ chưa đầy năm, đang men bờ hè tập đi cũng trở nên nhút nhát, lúc nào cũng nem nép, lấm lét, suốt cả ngày rúc dưới gian bếp với mẹ, dương hai con mắt mở thao láo nhìn ông khách lạ mới đến ở trong nhà, cái nhìn đầy thù nghịch. Cả hai vợ chồng lão Khúng cố tạo bầu không khí tự nhiên nhưng cả xóm vẫn cứ phải để con mắt tọc mạch nhìn vào cái ngôi nhà ngói có cây vối trước ngõ, ở đấy đang diễn ra một sự kiện đầy lạ lùng : ông chủ tịch huyện không ngồi com măng ca giơ tay vẫy quần chúng đang cày cuốc hai bên đường, cũng không diễn thuyết thao thao trên bục gỗ của nhà hội trường huyện, cũng không khề khà ăn tiệc, đánh chén mà lại xắn quần lên tận bẹn cùng sát vai bên cạnh cha con lão Khúng làm lụng quần quật từ sáng đến tối. Ðã thế lại còn đòi ăn uống kham khổ, mụ Huệ bưng lên một cái mâm gỗ có hai cái bát, hai đôi đũa cho chồng và ông khách ăn riêng thì ông khách lập tức bưng xuống nhà bếp, tự tay lượm một cái ghế con đến ngồi bên một góc cái mươn tre, hoà mình giữa đám con nhỏ vô cùng đông đúc của nhà chủ, cùng ăn những bát cơm khoai lang khô thái lát chỉ dính vài hạt cơm làm phép như chúng. Lão Khúng và cả
mụ vợ đã lấy làm bực bõ lắm, như thấy con mắt
người ngoài, một kẻ cao sang lúc nào cũng nhìn
soi mói vào tận đáy bát cơm nhà mình, và bàn
tay thò vào cuộc sống hàng ngày của mình. Dù
không ăn cắp, ăn trộm của ai nhưng cũng như mọi
người, vợ chồng lão Khúng cũng không muốn
người bên ngoài biết hết những cái không cần
thiết của nhà mình, kể cả những cái sự nhếch
nhác, túng đói, cũng như cái sự sung túc, no
đủ, kể cả những cái sự sống thực với nhau lặt
vặt hàng ngày ở trong nhà. Tất cả những cái
điều riêng tây đó, ông Bời không hề biết và
ông chỉ lấy làm bằng lòng về mình vô cùng :
ông biết rằng chẳng chóng thì chầy những hành vi
của ông ở đây sẽ loang đi trong khắp huyện,
khắp tỉnh, được những cái miệng cán bộ lẫn
dân thường bàn tán đến nát ra. Ông đã nghĩ
rất đúng, trong cả huyện, ông chọn nhà lão
Khúng để đến ở : đây là dinh luỹ cuối cùng
của sự làm ăn cá thể và chả biết ông nghĩ
thật hay ông nghĩ đùa : ông phải biến lão Khúng
thành một con người mới xã hội chủ nghĩa, ông
tự giao cho mình công việc ấy như một nhà hành
giáo tự nguyện dấn thân vào vòng nguy hiểm và
đầy cam go. Mặc cho ông chủ tịch huyện lợi dụng
mọi hoàn cảnh để lùa lão Khúng vào vòng tranh
cãi với ông về lý luận "hai con
đường", lão Khúng bao giờ cũng cố nín lặng
lắng nghe ông chủ tịch nói một câu cung kính, cố
dấu cái lưỡi thật kín để đừng dại dột thốt
lên cái câu "Tôi gần 10 đứa con vào hợp
tác xã để mà chết đói à ?" đã lấp ló ở
cửa miệng. Phải nói rằng
hồi bấy giờ, trong cái tuần lễ đầy trọng đại
ấy, cả gia đình lão Khúng chỉ có khoang đen là
kẻ dám ra mặt trò chuyện với vị khách một cách
sòng phẳng, thẳng thắn mặc dầu thiếu tinh thần
lịch sự, tôn trọng khách : Chưa một lần nào ông
Bời đặt nổi cái ách lên lưng nó và một lần
nó đá vị chủ tịch huyện một phát vào giữa
bụng khiến cho ông ta ngã bổ nhào, úp cả khuôn
mặt phương phi đầy cởi mở vào giữa đám ruộng.
- "Lúc bấy
giờ mày còn nhớ không - tự nhiên lão Khúng nói
to thành tiếng cho con bò đang bậm bạch đi phía
trước nghe được - tao đã phải vội vàng chạy
lại giơ hai tay nâng ông chủ tịch huyện dậy rồi
sau đó nhặt chiếc roi cày từ trong tay ông ta vừa
văng ra, tao đã quất cho mày một trận. Có ông
trời ở trên đầu chứng giám, ăn ở, làm lụng
với nhau cả một đời, có bao giờ tao nỡ đánh
mày một roi đâu, thịt da của mày cũng là thịt
da của tao, đúng sự thực là thế, mày đau tức
là tao đau, vậy mà lần ấy trước mặt ông chủ
tịch huyện đang nằm ôm bụng quằn quại, miệng
kêu hừ hự, ngay giữa luống cày, tao đã nỡ lòng
trở đầu roi cày để đánh mày, đánh thực lực,
tay đánh miệng chửi bởi, nguyền rủa không còn
sót một thứ lời lẽ độc địa nào nữa. Cũng
phải nói thêm : lúc ông chủ tịch bị mày
"chơi" cú đá hậu, cái thằng Dũng đang
đứng trên bờ đừng có nhăn răng ra cười, hềnh
hệch đầy khoái chí một cách vô ý thức đến
thế... thì chưa chắc tao đã phải đánh mày nặng
tay đến như vậy. Có phải không, cái thằng Dũng
đến là ngu ! Nó trẻ dại chưa biết cách cư xử !
Ðáng lẽ những lúc như vậy dù tức cười đến
vỡ bụng cũng phải mím chặt miệng lại. Ðừng có
bao giờ cười cợt chế nhạo cấp trên... Người ta
đường đường là chủ tịch huyện... Không biết
trước khi chết, cái thằng con của lão có khôn
ngoan hơn lên được tí nào không ? Nhưng cái
tính khí thẳng ruột ngựa của nó cũng là tính
khí của mình hồi trẻ, của cái lão Khúng ngất
ngưởng này trút sang cho nó từ trong máu thịt...
Bây giờ nó ở đâu, cái thằng Dũng vô ý vô tứ
ấy, bây giờ con đang lang thang ở đâu ? Phía biển ngập
chìm trong sương trắng, thỉnh thoảng xuất hiện
giăng giăng một hàng hạt cườm lóng lánh trong
thoáng chốc rồi lại tắt. Ðấy là ôtô tải chạy
thành đoàn dưới đường Một vừa đi vào cái
khúc ngoặt ở đầu phố cầu Giát. Con đường đồi
mang tên "Dốc bò lăn" thầy trò lão
Khúng đang đi sắp phải vượt qua một cái truông
chắc chắn đất vừa mới được cày vỡ chiều hôm
qua, một vùng đất mới cày bát ngát... Con khoang
đen lấy làm sung sướng chun mũi hít hít, chỉ có
nó mới cảm nhận được đầy đủ mọi hương vị
của đất mới được cày lật lên đang toả ra từ
hai bên vệ đường. Lão Khúng ban
đầu còn dứt tai vò tóc cố chống cơn buồn ngủ
đang ập đến giữa trí não đã trở nên tối lại
mò mò. Cũng tại vì tự nhiên thấy đau lưng, lão
tựa sát vào những bó củi, lão thấy thực dễ
chịu, lại còn nghĩ được : lần này vợ lão gửi
xuống cho con Hương toàn loại củi cành, rồi nó
sẽ khó bán ! chả biết bán đến mấy phiên chợ
mới hết ? Rồi lão quờ tay sang bên đẩy cái đẫy
đựng đầy khoang lang khô, lẫn gạo, phần ăn của
đứa con gái trong nửa tháng, tay đẩy nhưng đầu
lại tựa vào đấy lão cảm thấy êm ái quá ! Có
lẽ hoàng đế ngủ trong cung điện cũng chỉ sung
sướng đến thế này là cùng - lão nghĩ một cách
hài hước, tự nhiên hai tay bắt chéo trước bụng,
khép chặt hai vạt áo dạ cứt ngựa vào sát thân
mình - Kệ con khoang đen, kệ mụ già ấy ! sau cái
ý nghĩ buông thả, hưởng lạc ấy là óc lão tối
hẳn, không sao tự kiểm soát được nữa. Lão
ngoẹo đầu về một bên, buông thõng hai tay, miệng
bắt đầu ngáy một cách thực ngon lành theo cái
điệu ngáy vo vo quen thuộc của lão ở nhà. Lúc bấy giờ con
khoang đen đã biết tỏng lão đã ngủ tuy nó
không quay lại nhìn. Con vật bình thản một mình
kéo chiếc xe lên dốc lại xuống dốc. Nếu lão
Khúng vẫn ngủ tịt cho đến tận sáng thì con bò
vẫn có thể tự lực đưa lão cùng chiếc xe xuống
phố cầu Giát, vào tận khu tập thể học sinh cấp
ba ở nội trú tận bên kia cầu xi măng. Nó đã
thuộc con đường ấy, qua nhiều lần xuống chợ
Giát. Một luồng ánh sáng chiếu sáng quắc từ
phía sau. Trong khi chiếc xe tải lao vụt qua, con
khoang đen cẩn thận đi sát vào bên đường, nó
gần như dừng hẳn lại không bước tiếp nữa. Cái
quầng sáng lai láng đầy chói chang của cặp đèn
pha chiếu từ phía sau cùng tiếng bánh xe lao ầm
ầm ngay bên cạnh vẫn không thể đánh thức nổi
lão Khúng, nhưng nó đã đánh thức dậy giữa
giấc ngủ của lão với giấc mơ khủng khiếp khi ở
nhà : lão lại nằm mơ, nhưng khác với lần
trước, là chính lão bị đánh bằng búa tạ,
chính lão là con bò ! Lão tự nhìn mình trong cái
thân hình nửa bò nửa người, máu mê đầm đìa,
mà lão vẫn bình thản y như thân thủ một cái
điều đương nhiên mà trong những khi thức lão
không hề được biết. Vẫn bằng cái hình thù gớm
ghiếc ấy, lão đang cùng bí thư Bời sóng đôi
bước đi trên một dải đất bằng phẳng trên một
vùng cao nguyên nóng như rang. Mang thân hình nửa
bò nửa người, lão cùng lão Bời đi theo sau
thằng Lạc, thằng con trai của lão đang đi khai
hoang ở Ðắc Lắc, ba người cứ ngật ngưỡng đi
như người đi kheo trên suốt một vùng đất
được treo lên giữa lưng chừng trời, suốt một
ngày đi không có một chỗ nào có được một
giọt nước. Ðất dưới chân lão Khúng bây giờ
là một thứ đất đầy màu mỡ, khô không khốc
đỏ như son mài, mới được cày vỡ bằng máy,
từng làn đất bột màu hồng bay là là dọc theo
những cánh rừng tốt tươi, lá cây cứ xanh biếc
như vẽ. Ðêm tối sập
xuống, bóng tối nhẹ như bấc và đầy huyền ảo,
con bò hoá thân của lão Khúng bỗng chốc trở nên
say sưa, ngây ngất trước hương vị của đất
cày. Ðến bây giờ nó đang đứng chỉ có một
mình giữa vùng đất cao nguyên Ðắc Lắc mới
được bàn tay những người khai hoang cày vỡ và
nó thấy chỉ chốc lát nữa, trời sẽ sáng và nó
phải rời những luống cày để trở về sống trong
rừng cây xanh biếc kia. Nó chính là loài thú
hoang, hay đúng hơn, một con vật gia súc đã trở
nên hoang dã, đã tìm trở lại được cái cuộc
sống tự do muôn thuở của nó. Ðến lúc này thì
lão Khúng tỉnh ngủ. Lão lại trở về kiếp sống
làm người như bình thường hàng ngày lão vẫn
sống, tuy vậy vẫn chưa dứt bỏ được những ám
ảnh cảm giác của loài vật do giấc mơ đã để
lại giữa trí não. Lão duỗi thẳng chân tay, sờ
nắn từng cái bắp tay, bắp chân một, thấy vẫn là
loài người nguyên vẹn, lão lấy làm yên tâm. Vẫn nằm ngả đầu
vào bì khoai lang khô lẫn gạo đem xuống cho đứa
con gái, vốn tính cẩn thận lão lại nắn tay nắn
chân một lần nữa, lại còn sờ ra sau mông xem
mình có còn cái đuôi hay không, lần này thì
lão xác định hoàn toàn không có gì đáng lo
ngại, tuy vậy hai mắt lão Khúng vẫn không rời
cái hình dáng con bò với bốn cái chân đang đi
từng bước thủng thỉnh trong đêm vắng phía
trước mặt lão, ngay trước con mắt lão. Vẫn y
như hình dáng của chính lão - cái hình dáng
thật mà chỉ một lần lão vừa được nhìn thấy. Rít xong một mồi
thuốc lào, lão trở nên hoàn toàn tỉnh táo, và
càng tỉnh ra, càng ngồi suy nghĩ, cái ý niệm lẫn
lộn giữa mình và con bò lại cứ trở về lởn vởn
trong trí óc lão. Lão nhớ lại cánh rừng ở trong
giấc mơ với toà lá xanh thẫm, cây lim lẫn thông
già mọc trên vách đá, những con bò hoang dã đi
đứng trên vỉa núi đá đầy cheo leo hoặc bình
yên gặm cỏ giữa những khoảng rừng bằng ngập
đầy nắng. Trong đàn bò kia đã từng có mặt
lão, cái dáng dấp thong dong và thư thái nhất
trần đời của lão. Chuyện này giá có đem kể
lại, chắc chả có một người nào tin. Thế rồi
đột nhiên lão Khúng đi đến một quyết định
đầy điên rồ : lão quyết định giải thoát con
vật ! Tự nhiên lão thấy lão đang làm một công
việc vô cùng vô nhân đạo. Cả một đời con vật
nai lưng ra kéo cày để nuôi sống gia đình lão,
và bây giờ lão đền ơn trả nghĩa cho con vật
bằng việc đem bán no cho người ta giết thịt ?
Lão thấy lão không còn là giống người nữa chứ
còn đâu nửa người nửa thú vật ? Một lát sau
lão không lên án, tự xỉ vả mình nữa mà chỉ
thấy trong người mình một cái nhu cầu đầy bức
bách tự giải thoát. Con bò đang kéo chiếc xe đi
qua một quãng rừng thưa thớt. - Họ... họ... Cuộc xua đuổi cứ thế diễn ra lặng lẽ giữa đêm trường. Càng xua được con vật dấn mình vào giữa rừng sâu càng xa con đường "bò lăn" ở ngoài kia, lão Khúng càng thấy yên tâm, lại thấy có một cái gì khoái lạc, tự thoả mãn, chẳng lẽ lão cảm thấy được lão đang xua đuổi cái số phận quá đỗi nhọc nhằn của lão ra khỏi đời lão, cái số phận nửa người nửa con vật ? Càng đi sâu vào, rừng càng dày. Những thân cây dổi lâu năm ôm trên mình toàn lá rậm rịt. Qua hai ba ngọn suối thì đến một khu rừng cũng toàn dổi mọc trên dãy núi đá. Rừng tối hơn. Ðây là gian sơn, nơi trú ngụ của bầy bò hoang. Từ ở đây vào những tháng hè nắng ráo, những con bò đã từng là gia súc thường nhớ vị mặn của muối, đêm đêm lần xuống các gia đình người kinh, sục vào bếp, thè lưỡi liếm hối hả lên mặt những chiếc kiềng sắt hoặc đầu ông núc. có đôi khi vào nửa đêm lắm sao hoặc có trăng sáng, chúng kéo nhau từng bầy năm bảy con xuống phá phách hoa màu trên nương của bà con đồng bào địa phương ở bên kia sườn núi đá. Người ta rình, tổ chức phục kích, đào hào cắm chông nhưng vẫn chưa bắt được của chúng một con nào. Cái giống bò sống hoang đã thật ranh khôn... Cuộc xua đuổi
đã kéo dài hàng tiếng đồng hồ. Lão Khúng đã
mệt nhoài nhưng vẫn chưa chịu cho vật dừng lại.
Nó phải đi thật xa, phải bắt nó vào thật sâu
giữa rừng thẳm, để không còn lối nào trở lại
với lão. Rồi thì mai đây khi trở về nhà, lão
nghĩ, lão sẽ nói thật với mụ Huệ, lão đã
không đem xuống chợ Giát để bán mà trên dọc
đường đã giải thoát cho nó, trả lại cho nó
cuộc đời tự do, lão đã xua nó vào rừng, vào
giữa giang sơn của một bầy bò hoang... Chắc hẳn
mụ Huệ cũng không mè nheo lão. Mụ sẽ thông cảm
với lão, với việc làm của lão. Sau khi xua được
con vật sang bên kia sườn núi đá, lão Khúng âu
yếm chia tay với người bạn đời bằng cách trở
đầu roi, cầm trên tay đánh một trận thực lực,
tay đánh miệng chửi bới nguyền rủa. Giữa lúc con
vật đau điếng, đang quằn quại suýt quỵ bốn
chân xuống thì lão Khúng đột ngột quay lưng lại
phía nó. Không nói thêm một lời nào. Lão bỏ
đi, mất hút vào đêm tối. Lão trở về bên chiếc
xe bò khi màn đêm đã nhợt trắng. Lão biết rằng
từ đây trở đi chỉ còn một phần ba đường đất
và đường sá cũng đỡ khốn khổ hơn. Lão xem lại dây
chằng những bó củi cùng đống chè xanh trên nóc
xe, tranh thủ rít thêm một mồi thuốc lào rồi một
thân một mình, lão kéo chiếc xe ra giữa đường
cái, tiếp tục cuộc hành trình về xuôi. Mùi mồ hôi bò khai khai, lâu đòi phả ra nồng nặc trên cái ách gỗ đang bắt đầu thấm ướt đẫm mồ hôi muối của lão. Trên đầu lão, trời sao thưa ra, ngôi nào ngôi nấy trắng nhợt như sắp rơi rụng hoặc đi trốn vào bóng tối hết. Lão kéo chiếc xe lăn bánh lọc cọc giữa hàng đoàn những chiếc xe khác do trâu hoặc bò kéo đang vượt lên trước lão, thỉnh thoảng lại có một đoàn xe sộc chở than hoặc gỗ súc trẩy xuống chợ Giát trong tiếng kêu ken két rất là não nề. Khoảng bảy giờ sáng lão Khúng mới lôi được chiếc xe xuống đầu phố cầu Giát. Ðến lúc này trên con đường số Một không còn lối mà len chân nữa. Lão Khúng tháo
ách ra khỏi vai, ngồi xếp bằng ngay bên vệ cỏ
của đoạn mút con đường bò lăn đã rải đá
răm. Lão ngẩng cao cổ phóng tầm mắt nhìn theo con
đường bò lăn cắt ngang con đường số Một để
đi thẳng xuống miền biển. Ðấy là con đường duy
nhất để lão đi về làng, rải toàn đá lèn ban
đêm cứ trắng lộm lốp. Lão ngồi xếp bằng ở
đấy để nghỉ chân có lẽ đến nửa tiếng đồng
hồ, ngay bên vệ đường, sau khi rít một lúc hai
điếu thuốc lào thông, lão cảm thấy mệt đến
đứt hơi nhưng lại khoan khoái vô cùng, như làm
được một việc từ trước đến gờ lão vẫn hằng
mơ ước nhưng chưa có cách gì để làm. Con
người lãi lúc này như đã phân thân ra, một
nửa đang sống cuộc đời con khoang đen nhởn nhơ
giữa nội cỏ trong rừng thẳm, một nửa đang là
chính hình ảnh cuộc sống của lão trong hiện tại
: một lão già nông dân đầy nhọc nhằn một mình
với chiếc xe bò giữa đường. Phố cầu Giát,
cái phố huyện nổi tiếng sầm uất đang bừng bừng
sống dậy trong phiên chợ. Nhưng bặm trợn
nhất, cứ xô giạt hết cả các đoàn súc vật lần
ôtô tải mà len lên, mà chạy giần giật về phía
trước, là những đoàn đàn bà chạy cá tươi từ
dưới biển lên. Họ chạy thành từng đám dăm bảy
mụ, mươi mụ, mụ nào cũng cao lớn như hộ pháp,
váy mụ nào mụ nấy bị xét gần tới đầu gối,
yếm áo tơi tả, mà phần lớn ở trần, mồ hôi
nhẫy ra, họ vừa chạy vừa la hét dẹp đường, vũ
khí tấn công cũng như tự vệ là cặp khuỷu tay
lúc nào cũng chĩa ra hai bên... Lão Khúng cố ý
tránh xa đám đàn bà "kẻ biển" đang say
sưa "chạy cá". Lão sợ trong đà chạy
đám "liễu yếu đào tơ" ấy có thể vô
ý xô đổ cái xe bò chở củi lần chè xanh chất
cao ngất ngưởng, lại chỉ có một mình lão đang
ra sức kéo về phía bên kia cầu. Chẳng biết làm
thế nào khác hơn là cứ lẽo đẽo theo sát một
chiếc xe tải chở đầy lợn đang tiến về phía
trước như người dẫn rượu. Như thế chiếc xe
củi được an toàn mà lão đỡ mệt. Dù sao thì
cho đến lúc này lão đã thấm mệt. Bởi vì càng
tiến gần đến cổng chợ, cái đám người và súc
vật đường hình càng trở nên quay cuồng mà mật
độ càng lớn. Trong một lúc nào đó lão Khúng
đưa cánh tay áo lau dòng mồ hôi chảy ròng ròng
trên mặt và lúc hai con mắt đã sáng sủa hơn,
lão nhìn ra hai bên và phía trước, phía sao lão
thấy toàn cả một đám đông đúc xám xịt toàn
trâu bò già người ta đập đi chợ để bán thịt.
Chung quanh lão y như có ai bày ra cái trò gì để
trêu lão ? Bất giác lão nhìn sâu vào cặp mắt
của một con bò đang mệt nhọc bước đi từng
bước ậm ạch, lọc cọc ngay sát bên chiếc xe của
lão. Ðấy là một con bò đực ít nhất cũng đã
từng sống trên vài chục năm, con vật gần như
đã trụi hết lông, yếm chảy sát gối, và đặc
biệt hai con mắt toét nhèm của nó nhìn sao mà cứ
hướng vào lão - hai con mắt đầy âm thầm và
nhẫn nhục của con vật già nua đang bình thản đi
đến chỗ chết. Lão Khúng cố xoay
xở lôi chiếc xe củi ra khỏi đám trâu bò già
đem bán thịt. Lão gập lưng kéo
chiếc xe đi nhanh qua cái quán phở mà lão chủ
quán có quen biết lão từ nhiều năm nay. Nhưng
kéo xe qua đoạn phố nào lão cũng chỉ thấy một
mầu đỏ đầy ghê sợ của những quầy thịt bò treo
trên những hàng móc sắt. Dân buôn, lái xe, cán
bộ đi công tác, khách lai vãng từ Bắc vào hoặc
từ phía Nam ra, mấy ai bỏ lỡ cơ hội mua một ít
thịt bò tươi ở cái phố huyện nằm ngay trên
đường Một, cái thịt trấn sầm uất đang khủng
hoảng thừa bò cày cũng như bò thịt thậm chí
những người có đầu óc làm ăn kinh doanh của
địa phương lại đang còn tính toán hùn vốn mua
một hai chiếc xe có thiết bị ướp lạnh. Cái thứ
thực phẩm cao cấp ở đây mỗi sáng sớm sẽ được
chuyên chở cấp tốc ra Hà Nội hoặc đi các thành
phố đang khan hiếm thực phẩm để cung cấp cho các
cửa hàng ăn. Như một kẻ đang chạy trốn một
cuộc tàn sát đầy tàn nhẫn, lão Khúng hối hả
kéo chiếc xe củi sang bên kia cầu. Nhưng bên kia
cầu cũng vẫn thấy khắp nơi cái mầu đỏ ối của
thi thể những con vật kéo cày. Lão rẽ vào một
con đường lát đá phiến khấp khểnh, đi qua một
cái nhà thờ đạo đầy vẻ tĩnh mịch rồi tiếp
đến những dãy bức tường gạch sứt mẻ của nhà
kho hợp tác đã bỏ hoang phế. Ngôi trường cấp ba
mà con gái lão đang theo học lớp 12 đây rồi,
đập ngay vào cảm giác lão là một sự bình yên
của không khí nghiêm trang của các lớp đang giờ
học, khiến cho lão trở lại bình tâm Lão Khúng đi
thẳng đến trước một gian phòng ở cuối dãy mà
lão vẫn quen thuộc, ở đấy con gái lão ở chung
với mấy cô bạn học lớp dưới. Gian phòng của con
lão khoá kín cửa. Lão đang toan dở đống củi
xuống trước cửa phòng con gái lão thì tự nhiên
lão ngớ ra : lão vừa nhìn thấy một con bò đang
nằm nhai cỏ bên vạt sân bóng chuyền của đám con
gái ở bên hồi nhà. Ngay lập tức lão giật nẩy
mình sực nhận ra đích thị là nó, con khoang đen
của nhà lão, cái con khoan đen mà trong đêm khuya
khoắt lão đã đích thân dắt vào tận trong rừng
thật sâu, rồi lại còn phải dùng roi vọt đánh
đập vô cùng tàn nhẫn để xua nó đi với cuộc
sống tự do. |