NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
(1822 - 1888)

TIỂU sử:

TÁC phẩm chính:

TRÍCH dẫn:

Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc

Hỡi ơi !

Súng giặc đất rền,
Lòng dân trời tỏ.
Mười năm công vỡ ruộng,
Xưa ắt còn danh nổi như phao,

Một trận nghĩa đánh Tây,
Thân tuy mất tiếng vang như mõ.

Nhớ linh xưa

Côi cút làm ăn,
Riêng lo nghèo khổ,
Chưa quen cung ngựa đưa tới trường nhung
Chỉn biết ruộng trâu ở theo làng hộ;
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy,
Tay vốn làm quen;

Tập khiên, tập mác, tập giáo, tập cờ,
Mắt chưa từng ngó.

Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng,
Trông tin quan như nắng hạn trông mưa.

Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm,
Ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.

Ðêm thấy bòng bong che trắng lớp,
Những muốn ăn gan;

Ngày xem ống khói chạy đen xì,
Toan ra cắn cổ.

Một mối xa thư đồ sộ,
Há để ai chém rắn đuổi hưu;

Hai vầng nhật nguyệt chói lòa,
Ðâu dung lũ treo dê bán chó.

Nào đợi ai đòi ai bắt,
Phen này xin ra sức đoạn kình.

Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi,
Chuyến này dốc ra tay bộ hổ.

Khá thương thay

Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ,
Theo giòng ở lính diễn binh;

Chẳng qua là dân ấp, dân làng,
Mến nghĩa làm quân chiêu mộ

Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn;
Chín chục trận binh thư, không chờ bài bố.
Ngoài cật có một manh áo vải,
Nào đợi mang bao tấu, bao ngòi,

Trong tay dùng một ngọn tầm vông,
Chi nài sắm dao tu, nón gỗ.

Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi,
Cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;

Gươm đeo dùng một ngọn dao phay,
Cũng chém đặng đầu quan hai nọ

Chi nhọc quan Quản gióng trống kỳ trống giục,
Ðạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không.

Mặc kệ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to,
Xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.

Kẻ đâm ngang, người chém dọc,
Làm cho mả tà, mả ái hồn kinh.

Bọn hè trước, lũ ó sau,
Trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.

Những lăm lòng nghĩa sau dùng
Ðâu biết xác phàm vội bỏ.
Một chắc sa trường rằng chữ hạnh,
Nào hay da ngựa bọc thây;

Trăm năm âm phủ ấy chữ quy,
Xá đợi gươm hùm treo mộ

Ðoái sông Cần Giuộc,
Cỏ cây mấy dặm sầu giăng;

Chẳng phải án cướp, án gian đày tới,
Mà vi binh đánh giặc cho cam tâm.

Vốn không giữ thành, giữ lũy bỏ đi,
Mà hiệu lực theo quân cho đáng số.

Nhưng nghĩ rằng

Tấc đấc ngọn rau ơn chúa,
Tài bồi cho nước nhà ta

Bát cơm manh áo ở đời,
Mắc mớ chi ông cha nó ?

Vì ai khiến quan quân khó nhọc,
¡n tuyết nằm sương ?

Vì ai xui hào lũy tan hoang,
Xiêu mưa ngà gió ?

Sống làm chi theo quân tả đạo,
Quẳng vùa hương, xô bàn độc
Nghĩ lại thêm buồn;

Sống làm chi ở lính mả tà,
Chia rượu ngọt, gặm bánh mì,
Nghe càng thêm hổ.

Thà thác mà đặng câu dịch khái,
Về sau tổ phụ cũng vinh,

Hơn còn mà chịu chữ đầu Tây,
ở với man di rất khổ.

Ôi thôi thôi

Chùa Lão Ngộ năm canh ưng đóng lạnh,
Tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm;

Ðồn Tây Dương một khắc đặng rửa hờn,
Tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.

Ðau đớn mấy, mẹ già ngồi khóc trẻ,
Ngọn đèn khuya leo lét trong lều,

Não nùng thay, vợ yếu chạy tìm chồng,
Con bóng xế vật vờ trước ngõ.

Ôi !

Một trận khói tan,
Nghìn năm tiết rỡ.
Binh tướng nó hày đóng sông Bến Nghé,
Còn làm cho bốn phía mây đen.

Ông cha ta còn ở đất Ðồng Nai,
Ai cứu đặng một phường con đỏ.

Thác mà trả nước non rồi nợ,
Danh thơm đồn sáu tỉnh cũng đều khen;

Thác mà ưng đền miếu để thờ,
Tiếng hay trải muôn đời ai cũng mộ

Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc,
Linh hồn theo giúp cơ binh

Muôn kiếp nguyện được trả thù kia

Sống thờ vua, thác cũng thờ vua,
Lời dụ dạy đã rành rành
Một chữ ấm đủ đền công đó.

Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo,
Thương vì hai chữ thiên dân.

Cây nhang nghĩa khí thắp nên thơm,
Cám bởi một câu vương thổ.

Hỡi ơi !

Có linh xin hưởng.


Xúc cảnh

(Trích "Ngư tiều y thuật vấn đáp")

Hoa cỏ ngùi ngùi ngóng gió Ðông
Chúa Xuân đâu hỡi có hay không?
Mây giăng ải Bắc trông tin nhạn
Ngày xế non Nam bặt tiếng hồng
Bờ cõi xưa đà chia đất khác
Nắng sương nay há đội trời chung.
Chừng nào Thánh đế ân soi thấu
Một trận mưa nguồn rửa núi sông


Lẽ ghét thương

(Trích "Lục Vân Tiên")

Qúan rằng:"ghét việc tầm phào
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm
Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm
Ðể dân đến nỗi sa hầm sẩy hang
Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm
Ðể dân đến nỗi sa hầm sẩy hang
Ghét đời U, Lệ đa đoan
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần
Ghét đời Ngũ Bá phân vân
Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn
Ghét đời Thúc Quý phân băng
Sớm đầu tối đánh, lằng nhằng rối dân
Thương là thương đức thánh nhân
Khi nơi Tống Vệ, lúc Trần, lúc Khuông
Thương thầy Nhan Tử dở dang
Ba mươi mốt tuổi, tách đàng công danh
Thương ông Gia Cát tài lành
Gặp cơn Hán mạt đã đành phôi pha
Thương thầy Ðồng Tử cao xa
Chí đà có chí, ngôi mà không ngôi
Thương người Nguyên Lượng ngùi ngùi
Lỡ bề giúp nước lại lui về cày
Thương ông Hàn Dũ chẳng may
Sớm dâng lời biểu tối đày đi xa
Thương thầy Liêm, Lạc đã ra
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân
Xem qua kinh sử mấy lần
Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương.


Tài Liệu Tham Khảo:
  • Thi Văn Quốc Cấm Thời Thuộc Pháp, Thái Bạch
  • Văn Học Việt Nam Nửa Cuối Thế Kỷ XIX, Nguyễn Lộc
  • Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Dương Quảng Hàm.