- Nhà thơ Việt nam. Tự Mạnh Trạch; hiệu Trọng Phủ, Hối Trai. Sinh ngày 01/07/1822 tại làng Tân Thới, huyện Bình Dương, phủ Tân bình, tỉnh Gia định; nay là thành phố Hồ chí Minh.
- Cha là Nguyễn Ðình Huy, quê ở Phong điền, Thừa thiên Huế; làm Thơ lại Văn hàn ty của Tổng trấn Lê văn Duyệt. Mẹ là Trương thị Thiệt, người Gia định.
- Năm 1843, ông đỗ tú tài ở trường Gia định. Năm 1847, ông ra Huế học thêm để chờ khoa thi Kỷ Dậu nhưng được tin mẹ mất. Ông trở về chịu tang, dọc đường bị bệnh rồi mù cả đôi mắt.
- Sau đó, ông chuyển sang học thuốc, chữa bệnh cho dân, mở trường dạy học, đồng thời sáng tác văn chương.
- Năm 1858, giặc Pháp chiếm quê hương, ông lần lượt tỵ địa về Cần giuộc, Ba Tri. Ông liên hệ mật thiết với Ðốc binh Là, lãnh binh Trương Ðịnh và tích cực dùng văn chương kích động lòng yêu nước của sĩ phu và nhân dân.
- Biết ông là người có uy tín lớn, bọn thực dân và tay sai tìm mọi cách mua chuộc, nhưng ông dứt khóat từ chối. Ðau buồn vì cảnh nước mất nhà tan, bệnh ngày càng trầm trọng, ông mất ngày 03/07/1888 tại Ba tri.
- Nguyễn đình Chiểu sáng tác nhiều thể lọai, thể tài. Thành công hơn cả mảng thơ Nôm và Văn tế. Văn phong của ông bình dị, giàu tính nhân dân và tính chiến đấu.
- "Lục Vân Tiên"
- "Dương Từ-Hà Mậu"
- "Chạy Tây"(1859)
- "Văn tế nghĩa sĩ Cần giuộc" (1861)
- "Mười hai bài thơ điếu Trương Ðịnh và Văn tế Trương Ðịnh" (1864)
- "Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh" (1874)
- "Ngư Tiều y thuật vấn đáp" .
Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc |
Súng giặc đất rền, Một trận nghĩa đánh Tây,
Côi cút làm ăn, Tập khiên, tập mác, tập
giáo, tập cờ, Tiếng phong hạc phập phồng
hơn mười tháng, Mùi tinh chiên vấy vá đã ba
năm, Ðêm thấy bòng bong che trắng
lớp, Ngày xem ống khói chạy đen
xì, Một mối xa thư đồ sộ, Hai vầng nhật nguyệt chói
lòa, Nào đợi ai đòi ai bắt, Chẳng thèm trốn ngược trốn
xuôi,
Vốn chẳng phải quân cơ,
quân vệ, Chẳng qua là dân ấp, dân
làng, Mười tám ban võ nghệ, nào
đợi tập rèn; Trong tay dùng một ngọn tầm
vông, Hỏa mai đánh bằng rơm con
cúi, Gươm đeo dùng một ngọn dao
phay, Chi nhọc quan Quản gióng
trống kỳ trống giục, Mặc kệ thằng Tây bắn đạn
nhỏ, đạn to, Kẻ đâm ngang, người chém
dọc, Bọn hè trước, lũ ó sau, Những lăm lòng nghĩa sau
dùng Trăm năm âm phủ ấy chữ quy, Ðoái sông Cần Giuộc, Chẳng phải án cướp, án gian
đày tới, Vốn không giữ thành, giữ
lũy bỏ đi,
Tấc đấc ngọn rau ơn chúa, Bát cơm manh áo ở đời, Vì ai khiến quan quân khó
nhọc, Vì ai xui hào lũy tan hoang, Sống làm chi theo quân tả
đạo, Sống làm chi ở lính mả tà, Thà thác mà đặng câu dịch
khái, Hơn còn mà chịu chữ đầu
Tây,
Chùa Lão Ngộ năm canh ưng
đóng lạnh, Ðồn Tây Dương một khắc
đặng rửa hờn, Ðau đớn mấy, mẹ già ngồi
khóc trẻ, Não nùng thay, vợ yếu chạy
tìm chồng,
Một trận khói tan, Ông cha ta còn ở đất Ðồng
Nai, Thác mà trả nước non rồi
nợ, Thác mà ưng đền miếu để
thờ, Sống đánh giặc, thác cũng
đánh giặc, Muôn kiếp nguyện được trả thù kia Sống thờ vua, thác cũng thờ
vua, Nước mắt anh hùng lau chẳng
ráo, Cây nhang nghĩa khí thắp nên
thơm,
Có linh xin hưởng. Xúc cảnh
Qúan
rằng:"ghét việc tầm phào |
Tài Liệu Tham Khảo: |
|