Bìm bịp kêu đâu đó, thế là
mùa nước lên, những con chim cánh nâu, ức cổ
mang màu đỏ như lửa bay là là ngang qua mặt
đê, ngang qua mặt người. Chúng bay gần lắm,
tưởng như với tay ra là tóm được, nhưng
khốn thay chính lúc ấy ta lại đứng sững lại
vì quá ngỡ ngàng và thế là chúng mất hút
trong bãi dâu. Trời trong xanh. Mây trắng ngổn
ngang tầng tầng lớp lớp. Dưới sông Cầu nước
trôi băng băng, con sông già nua vốn thường
uể oải lờ đờ mà nay bỗng quay cuồng với
những vùng xoáy trông vào đến khiếp. Vài ba
con thuyền ngược dòng nặng nhọc, buồn kéo
lên đón nam tuy vậy vẫn phải có thêm dăm
người khom lưng cõng dây kéo, họ bước chậm
chạm ven bờ.
Nhưng bên trong đê lại là một khung cảnh
khác hẳn, thật êm ả. Cánh đồng rộng không
một bóng người, vừa gặt chiêm xong, mặt
ruộng khô ráo còn trơ nhữn gốc rạ. Giữa
đồng là một dãy chuôm nước trong veo, đấy
là vết chân ngựa ông Gióng, móng ngựa sắt
cắm sâu vào đất, để lại kỷ niệm muôn
đời. Dãy chuôm chạy từ những vùng đất xa
xôi về tới đây thì chấm hết. Thuở ấy ông
Gióng qua làng chúng tôi rồi leo lên núi Sơn,
bay về trời. Ông Gióng đánh tan giặc là đi
luôn, cho nên trên núi giờ vẫn đang còn đền
thờ ông. Bà nội tôi kể ông hiển thánh cũng
bởi thế, nếu ông không về trời ngay mà còn
ở lại lấy vài mươi năm thì thiên hạ thật
khó nhọc, bởi vì ông ăn khoẻ lắm, mỗi bữa
ăn nong cà bảy nong cơm. Ngẫm ra những ai chịu
chết sớm nhường miếng ăn cho người khác
cũng đã đáng để được thờ phụng. Buổi hai
bà cháu tôi dắt nhau xuống Sơn là một buổi
nắng đẹp. Bóng tôi bóng bà lồng dưới đáy
chuôm. Chúng tôi tắt qua cánh đồng để lên
đê. Bà không quên dặn tôi chớ có bao giờ
lội xuống đùa nghịch dưới những cái chuôm
ấy nữa. Tất nhiên là tôi biết sợ rồi. Hồi
năm ngoái tôi suýt chết đuối ở chỗ này.
Tôi theo lũ bạn trong làng ra đồng vầy nước,
rồi thình lình hai chân tôi bị ai tóm chặt
lôi tụt xuống. Tôi sặc sụa vẫy vùng mà
không sao thoát ra khỏi đám rong đuôi chó
dầy dịt, những bụi rong ngoi theo nước vật vờ
như cánh tay ma. Khi tôi được lũ bạn kéo
lên thì bụng đã trương phềnh. Tôi được
chúng đặt lên bờ cỏ, nằm thẳng cẳng, đứa
dận chân vào bụng cho nước ộc ra, đứa quì
xuốn ghai tay chắp lạy lia lịa. Chúng khấn xin
cô Nỗng cho tôi được sống. Những cái chuôm
vốn mang một truyền thuyết đẹp, từ ngày cô
Nỗng chết hó thành ngao ngán quá thể. Tôi
như con cá ươn thở ngáp một lúc lâu thì
hồn vía nhập về, lúc tỉnh lại lũ bạn xúm
quanh hỏi ở dưới ấy thế nào, có gặp cô
Nỗng không, tôi đáp không gặp ai cả nhưng
sợ lắm, đúng là có người, có rất nhiều
người đưa tay giằng co rủ rê mình ở lại.
Mà không phải mình đang chìm xuống nước, nó
cứ mang máng như thể đang bay lên trời. Hôm
sau bà tôi sửa lễ mang tôi ra miếu cô, thắp
hương tạ lỗi. Trong miếu chẳng thấy có gì
ngoài một cái bình vôi lăn lóc và một đống
cứt trâu trước đấy tôi có chót dại vứt
vào. Bà bảo tôi ngồi trước cửa miếu, dưới
bóng cây đa cổ thụ, lầm rầm kể cho tôi rõ
bí mật cuộc đời khốn khổ của cô. Người
đã phải sống một kiếp trầm luân như thế là
ta phải thương yêu, phải kính cẩn, chớ có
hỗn hào. Sinh thời cô là một người con gái
cao lớn khác thường, bàn chân to như bàn
cuốc, tay dài như tay vượn mà hiền hậu lắm.
Nhưng người thế ai dám lấy về làm vợ, lâu
dần cô thành ế chồng. Tính nết mỗi ngày một
thất thường, lắm lúc như người hoá dở. Trai
làng nhiều người sức vóc lực lưỡng nhưng
hễ nghe tiếng cô là lảng trốn, có người bị
cô đuổi kỳ cùng, ba ngày không dám bén mảng
về nhà. Cô chết thê thảm. Dắt một con trâu
mộng lầm lũi ra giữa đồng, vật nhau với trâu
từ sớm đến xế chiều, tiếng chân người chân
trâu quần thảo huỳnh huỵch. Hôm sau làng xóm
thấy xác cô xác trâu nổi trên mặt chuôm.
Mái tóc đen nhánh như mun phủ loà xoà lên
khuôn mặt bầm tím, cái miệng há rộng như
cười cợt. Còn con trâu thì bị bẻ gãy cả hai
sừng, nó bị rút tung ruột ra, hai hòn dái
cũng bị cô bóp lòi ra, nát bét. Bà tôi ngồi
thở than trước miếu. Các anh bây giờ là
người hay quỉ mà xấc xược cốc láo làm vậy,
rồi tai ương có lúc sập xuống cho mà xem.
Sống trên đời đã có người là phải có
thần có thánh, ai xui các anh vào chùa vặn
chân tay phật, vứt những thứ thối tha vào chỗ
linh thiêng. Những quân vô sư vô sách, những
đứa tham lam mưu kế, những phường lừa thầy
phản bạn... tất thảy nếu không chịu sửa mình
rồi sẽ phải gặp nhau ở đáy địa ngục. Bị
hoả thiêu, bị quỉ sứ moi gan móc mắt. Có
sống thêm ngày nào ở đời cũng mới chỉ là
sống tạm, nào có vui sướng gì cho cam, còn
phải qua nhiều kiếp nữa chứ, vậy mà các anh
chẳng hay biết gì, các anh hỗn loạn nhốn nháo
quá... Giọng bà khê khê, nằng nặng, khắp
vùng không có tiếng nào khó nghe như tiếng
làng tôi, chợt nghe là nhận ra ngay, chẳng
trộn vào đâu được. Người ta kêu "ối
trời đất quỉ thần ơi", thì làng tôi
mọi người lại kêu "ới ểu ơi là ểu ơi,
ế leo ơi". Thiên hạ ngày tết gói bánh
chưng vuông, bánh chưng làng tôi lại tròn và
dài như cây cột. Làng người ta gặp năm
đình đám mở hội thi múa hát kèn sáo, rước
cờ rước kiệu, còn làng tôi thì khác hẳn,
đám đông đàn ông cởi trần chân đất, mỗi
người đóng một cái khố, hò nhau khiêng
những quả pháo rõ to mang ra ngoài đồng đốt
ầm ầm như súng thần công - Năm nào có đốt
pháo là thấy có trẻ con bị chết cháy - họ
xem sự chết như thế là một sự may. Người ta
gọi chỗ đi ngoài ra hố xí, làng tôi gọi là
chuồng trồ, còn phân thì gọi là khuẩn, khuẩn
lợn, khuẩn chó, khuẩn người. Củ khoai lang
thì gọi là con củ ! Những người thông thạo
lịch sử bảo gốc tích tổ tiên chúng tôi từ
trong Thanh Nghệ mò ra đây lập ấp, mà cũng
có thể là những tù binh Chiêm Thành bị vua
Lê vua Lý thích trán xăm mặt rồi đầy về
đây khẩn hoang. Tóm lại nguồn gốc kể ra
chẳng lấy gì làm vẻ vang cho lắm. Mà sự tối
tăm mờ mịt xem ra có phần hơi nhiều. Trong khi
đó các làng xung quanh là cả một vùng văn
hiến. Làng nào cũng một đống ông Nghè một
bè ông Cử, có người vác đó đi đơm tép
gặp khoa thi vội rửa chân tay vớ luôn nghiên
bút làm bài vèo một cái là đỗ. Có ông mít
đặc biết tuốt nói năng mộng mị một hồi
được phong trạng, tục gọi là Trạng Lợn. Con
cháu họ về sau cũng vẫn một cái mẹo ấy mà
hoá cử nhân tiến sĩ rất nhiều. Lại như con
gái làng tôi thì vụng dại đủ đường, ăn
nói líu lo ngọng nghịu đã đi một nhẽ, nhiều
cô nghiện thuốc lào, vừa nhóm bếp vừa rít
điếu cày chân thò vào lửa không rút ra nổi,
có cô nói khí không phải, say thuốc đái cả
ra quần. Chả bù cho các cô gái làng bên, họ
ăn nói mới duyên dáng làm sao. Có cô động
mở miệng là thành vè rồi. Trẻ con cùng lứa
chúng tôi, có đứa nổi tiếng thần đồng.
Nhìn chiếc lá bàng rơi nó nói đấy là thông
điệp của trời gửi cho đất, trong khi chúng
tôi chỉ chầu chực chờ cho cây rụng thêm lá
thì tranh nhau thu về nhóm nồi cám lợn. Bởi
vậy thật không dám kêu oan khi bà tôi gọi
tôi là đứa tối tăm như cái hũ nút. Ai đã
chui vào trong cái hũ rồi đậy nút kín lại
xem nó tối đến như thế nào thì chắc sẽ
hiểu tình cảm của tôi đáng lo ngại đến
đâu.
Thế đất làng
tôi là cái thế con cua bấy nằm giữa đồng
lụt, cho nên dân tình đời này qua đời khác
buồn bã là phải. Dẫu có muốn khôn xem chừng
cũng khó mà lại nổi với thiên hạ. Nói ra
chỉ thêm sượng sùng, vào ngày cúng thành
hoàng làng tôi người già bóp chuối tiêu nhừ
nát cho vào một cái gơ sơn son thiếp vàng,
bên cạnh có đặt một đôi đũa cả, có nghĩa
là cụ tổ lập ra làng thuở xưa chọn nghề gắp
cứt ! Tôi từ khi biết bưng bát cơm trên tay
trong cái đầu không óc của mình chỉ thấy
những ngậm ngùi, muốn ứa nước mắt. Thương
từng bước chân người làng sao mà lật đật,
những bước chân mạnh mẽ quá mức cần thiết,
đi thế thì đã nhàn nhã làm sao được. Rồi
những tiếng mẹ gọi con, vợ gọi chồng í a í
ới chiều hôm nghe sao chất phác quá chừng...
thôi thì trâu ta ăn cỏ đồng ta, cái phận
làng mình nó như vậy, thì thương luôn cái
phận ấy. Mỗi bước đi trên mảnh đất làng
với tôi đủ là một nỗi miền, một yêu dấu.
*
* *
Trong đầu tôi
có óc không nhỉ, điều đó tôi không được
rõ lắm, nhưng quả thật tôi chỉ thấy hào
hứng mỗi lân được theo bà đi bán ruộng.
Nhà neo người, chỉ có hai bà cháu, nhưng
ruộng nương thì không biết ở đâu ra mà
nhiều thế, hình như làng nào cũng có ruộng
nhà mình. Vậy nên hễ có ai đánh tiếng muốn
mua ruộng là bán liền, rẻ mấy cũng bán cho
xong. Thủ tục mua bán thật đơn giản, đối
với tôi nó là chuyện dễ ợt. Dạo đó tôi
đã lên mười, cũng đã biết cầm bút ký tên
mình lên giấy, nhưng người ta không cần tôi
ký, chỉ điểm chỉ là đủ. Hoá ra ngón tay
cái của con người ta lạ lắm, không ai giống
ai, nhúng nó vào đĩa mực nho rồi ép lên bản
văn tự, như thế là ổn thoả.
Hay nhất là
sau đó bao giờ cũng có một bữa ăn thịnh
soạn. Tôi được mời ngồi ngang hàng với
những ông già, họ vừa gắp thịt tới tấp vào
bát tôi vừa phỉnh khéo : "Cậu này lớn
lên ắt sẽ là người sứng !" Mũi tôi nở
to bằng cái bánh rán, tôi cũng gật gù như
các cụ trong lúc dám đàn bà trẻ con chạy
tít mù ở xung quanh. "Chị cả đâu nhỉ,
cho thêm tí muối chanh, thịt gà muối chanh là
phải vị lắm. Dạ có. Bố thằng buồi lấy mấy
cái tăm. Dạ tăm đây ông ạ. Chuẩn bị thau
nước và cái khăn bông, lấy nước trong bể
ấy nhá"...
Những ngón tay lòng khòng búng nhẹ vào thau
nước rồi vuốt qua lên miệng, có người dùng
đũa tre quệt ngang mồm. Bữa ăn kết thúc.
Tôi mong lâu lâu lại có dịp được theo bà
đi làm cái công việc vui vẻ đó. Nhưng bà
tôi thì khác, bà lấy làm đau lòng vì không
giữ nổi gia sản tổ tiên để lại, nhiều lần
thấy tôi săn đón hỏi han bà chửa tôi là
đứa phá gia chi tử, quân vén tay áo đốt nhà
táng, bà còn lo sau này không khéo tôi hoá
thằng ăn mày đầu đường xó chợ.
Nhưng ruộng ở xa nếu có người hỏi mua là bà
vẫn cứ phải gọi tôi cùng đi. Lần này hai bà
cháu xuống Sơn, bán ruộng cho cụ chánh
hương. Tôi chưa một lần gặp cụ Chánh, cũng
chưa đến đó lần nào, nhưng trên núi Sơn
đang có đồn Tây và làng Sơn là một làng
tề, chuyện ấy trẻ con làng tôi đều biết.
Thường mỗi lần gặp trẻ làng Sơn chăn trâu
ngoài đồng chúng tôi đều réo gọi chúng là
bọn Việt gian, không thèm chơi với lũ Việt
gian. Chúng không bao giờ cãi lại, có ý lảng
ra xa.
Tôi hỏi bà :
- Cụ Chánh Hương có theo Tây không ?
Bà tôi im lặng hồi lâu mới trả lời :
- Không. Cụ Chánh là người tốt. Chẳng qua
cũng vì cái thế đời bó buộc bắt cụ phải ra
làm việc. Anh Ty làng ta con rể quí như cụ
đấy, mày có biết anh Ty không đã ?
- Anh Ty đang đi vệ quốc đoàn, anh ấy ở
ngoài chiến khu Việt Bắc.
- Ðúng rồi. Còn gì nữa ?
- Anh Ty là chồng chị Tâm con cụ Chánh, khi anh
Ty đi bộ đội thì chị Tâm về dưới Sơn.
- Ðúng rồi, còn gì nữa ?
- Con chỉ biết có vậy thôi bà ạ.
- Ngày bố mày bị giặc giết, anh ty và cụ
Chánh khiêng bố mày về làng. Rồi hôm đưa
bố mày ra đồng, cụ Chánh khiêng một đầu
quan tài còn anh Ty thì đội mũ rơm cho mày,
bế mày đi ở phía trước. Năm ấy mày lên ba,
chẳng nhớ được gì, suốt dọc đường chỉ
thấy mọi người khóc thì cũng khóc theo. Nhà
ta không có họ hàng gì với anh ấy, nhưng
đấy là một người cháu phải mang ơn. Khi lớn
lên đường bao giờ quen chuyện ấy. Loạn lạc
mãi rồi cũng phải có lúc yên hàn, nhưng
chẳng hiểu bà con có sống nổi tới ngày anh
ấy trở về hay không.
Bà tôi thở
dài, giọng bà cứ nhỏ dần, thoảng trong gió.
Chắc bà buồn vì cảm thấy cái ngày anh Ty trở
về còn xa lắm. Tôi nắm lấy bàn tay gầy khô
của bà mà không biết nói gì. Tà áo tứ thân
nhuộm vỏ quạch đã bạc màu của bà, dải khăn
mỏ quạ trùm trên đầu bà, cây gậy trúc bà
cầm nơi tay, những lời bà thầm thì dặn dò,
mãi mãi in trong tâm trí tôi.
- Cháu nhìn
lên trên núi kia. Mỏm cao nhất là đền thờ
ông Gióng. Còn mỏm bên cạnh là bốt giặc,
bốn xung quanh có hàng rào thép gai, bên trong
tua tủa những súng. Chúng nó có cả ống nhòm,
đến ngón chân bà cháu ta bám trên mặt
đường chúng cũng nom thấy. Những gì bà cháu
nói chuyện với nhau thì ở xa chúng không biết
nổi, nhưng chúng có thể đoán ra cả đấy.
Thỉnh thoảng chúng lại gọi nhau bằng máy
"lô phôn", ở xa cả chục cây số cũng
vẫn nghe rõ.
Tôi cảm thấy
sợ luôn cả trái núi trước mặt. Ðoạn
đường dẫn vào làng Sơn rút ngắn dần. Càng
tới gần cổng làng tim tôi càng đập mạnh vì
bồi hồi lo lắng. Lần đầu tiên tôi chợt nghĩ
ra rằng không phải chuyến đi bán ruộng nào
cũng vui cả, như chuyến đi này chẳng hạn,
giá đừng bán chác gì lại hơn, thà cứ để
mặc đấy cho cỏ mọc.
*
* *
Ngôi nhà cụ
Chánh nằm ở giữa làng. Một ngôi nhà ngói
năm gia có hàng hiên rộng, tựa lưng vào núi,
ngoảnh nhìn ra sông. Hàng cột hiên nhẵn bóng,
chân cột có kê đá. Bậc thềm cũng bó bằng
đá. Bức tường bao quanh nhà và cái cổng đồ
sộ, tất cả đều là đá. Ngoài cổng có hai
con chó đá chôn xuống đất. Từ con đường
làng san sát những đá, leo lên những bậc đá
mỏi chân rồi mới tới nhà ông. Một cái ngõ
chập chùng xếp toàn đá là đá. Tôi chẳng
bao giờ được tới một nơi nào lạ mắt như
nơi này, có thể nói làng Sơn là một quần
thể kiến trúc của đá. Ông già đạo mạo,
râu tóc phơ nom phúc hậu đang đứng trên
thềm nhà đón chúng tôi.
- Hai bà cháu hiện ra ở ngoài đê là tôi đã
thấy ngay. Thằng cháu mau lớn nhỉ, kể từ ngày
chú ấy qua đời, tôi cũng ít có dịp lên
trên ấy.
- Cám ởn cụ. Nắng nôi quá, hai bà cháu tính
đi sớm để chiều còn về. Thấy cụ cho người
nhắn là tôi mang cháu xuống ngay, văn tự
ruộng tôi cũng có bọc trong người đây rồi.
- Việc ấy là việc nhỏ, lo lúc nào xong lúc
đó. Cụ cứ để văn tự đây, tôi cất vào
góc tủ này rồi chiều cháu Tâm về nó sẽ
đếm tiền gửi cụ chu đáo. Nhưng hôm nay hai
bà cháu chưa về ngay được, hãy nghỉ lại
dưới này, đợi cháu Tâm có việc qua sông
về, nó cũng đang có ý quyến luyến muốn
được chuyện trò lâu lâu với cụ đấy.
- Chuyện gì mà tôi nghe cụ nói có phần hệ
trọng ?
- Nó sắp ra ngoài vùng tự do với thằng Ty,
chỉ nay mai có người thông thạo đường đất
đến đón là nó xin phép tôi xin phép cụ theo
người ta ra ngoài đó. Nói riêng để cụ
biết, dạo này bọn lính tráng trên đồn nhiều
lắm, chẳng mấy hôm chúng không xuống làng
bắt phu phen tạp dịch, chúng bắt cả đàn bà
con gái lên đồn, người gánh nước, kẻ vác
đá vác tre, đã có vài ba cô bị hãm hiếp.
Nhục lắm cụ ạ. Tôi tính phải cho con Tâm
trốn đi sớm mới mong thoát được cảnh ấy,
gần đây trên đồn có một thằng đội ta mới
chuyển về, hắn thường lảng vảng xuống đây
luôn, hắn ra mặt chòng ghẹo con bé, tôi làm
sao giữ nổi.
- Cụ tính thế là phải quá, cô Tâm ra ngoài
vùng kháng chiến sớm muộn cũng được gặp
chồng. Ngoài ấy nghe nói vui lắm, hội họp
suốt đêm, người nhanh nhẹn tốt nết như cô
ấy thì chưa biết chừng có khi còn được
chọn đi làm cán bộ.
- Tôi cũng chả dám mong xa thế, chỉ cần vợ
chồng chúng nó gặp được nhau là đủ mừng
rồi.
Ngang chiều
chị Tâm về. Tôi ngồi ở bậc thềm trông ra
đê, thấy có hai người đang đi vào làng,
một người chị cùng một cô bé, cả hai đều
áo trắng, quần đen, nom kiểu cách thanh lịch
như người ngoài tỉnh về quê. Cụ Chánh bảo
đúng là chúng nó rồi đấy, con bé đi bên
cạnh chị Tâm là cái Diễm, chị Tâm phải gọi
mẹ Diễm là dì ruột, nó ở bên Thị Cầu, cũng
chập tuổi tôi, nhà có cửa hàng buôn nước
mắm mang lên trên này.
- Nó đẹp lắm ông nhỉ ?
- Cũng vừa vừa thôi, nhưng xem ra có duyên
thầm, người có duyên mới quí cháu ạ.
Ông Chánh nhìn tôi tủm tỉm cười, rồi ông
nắm lấy bàn tay bé bỏng của tôi. Bàn tay tôi
lúc nào cũng mềm nhão, lại hay đổ mồ hôi
mỗi khi mệt mỏi.
- Cháu có bị hen không ?
- Cháu hen đấy ông ạ, hôm nào trở trời là
cháu lại lên cơn, khó thở lắm, nghe có tiếng
lạo xạo trong ngực. Tôi đưa cái ngực lép
kẹp ra cho ông xem.
- Bệnh hen khó chữa lắm. Nghe nói nếu tìm
được mật quạ và tầm gửi cây gạo làm thuốc
thì may ra khỏi, nhưng tìm đâu ra. Có điều
những đứa trẻ hen lại thường học giỏi, mà
sống có tình, cũng là ông trời bắt chịu cái
khổ này thì cho phần vinh kia.
- Cháu học dốt lắm, đầu óc cháu lan man
những chuyện vớ vẩn đâu đâu mà bài thì
lại không thuộc.
- Lớn lên cháu sẽ học được, rồi ra cháu
không dốt đâu, đừng lo lắng gì cả.
Nghe ông nói vậy tôi cũng vững tâm hơn. Tôi
úp hai bàn tay ướt đẫm mồ hôi xuống viên
gạch lát trên thềm, hình hai bàn tay tôi hiện
lên trên nền gạch khô ráo.
Ông Chánh lẳng lặng nhìn vào tôi, rồi trước
khi quay vào trong nhà tôi thấy ông buông một
câu bâng quơ :
- Một cái mầm quặt quẹo yếu đuối, nhưng sẽ
cứng cáp dần lên, đấy là nhờ ông trời có
mắt.
*
* *
Cảm giác đầu
tiên của tôi là chị Tâm rất đẹp, đẹp như
người trong bức tranh lụa cổ. Dáng chị thanh
mảnh, mặt mũi nhẹ nhõm tươi sáng, giọng
nói, giọng cười đều ngọt ngào. Cái cổ cao,
nom thật sang. Mà chị dễ gần lắm. Vừa trông
thấy bà cháu tôi là chị reo lên, chị chạy
lại nắn nắn hai bả vai, hai cánh tay bà, hỏi
chuyện tíu tít. Rồi chị kéo tôi vào lòng,
âu yếm vuốt bàn tay mát mẻ lên mái tóc bờm
xờm của tôi, chị chỉ tay vào đứa em gái
đang đứng bên cạnh, bảo :
- Ðấy là Diễm, nó là em chị, chú cũng là em
chị. Anh Ty hồi còn ở nhà quý chú nhất, trẻ
em con trong làng không đứa nào được anh ấy
thương bằng chú, có nhẽ rồi ra sau này cũng
chỉ có hai anh em chú là đi một đường với
nhau. Em nhớ anh Ty chứ ?
- Em nhớ ạ.
Tôi thấy hai mắt chị chớp chớp, có ánh buồn
và ngấn lệ. Tôi hiểu là chị cũng đang nhớ
thương anh lắm. Anh đang ở một nơi nào xa
xôi, rừng xanh núi đỏ, xông pha trận mạc,
cũng có khi chết mất rồi. Những người như
thế dễ chết lắm, như bố tôi đấy, bòm một
tiếng, thế là không còn ở đời.
- Chị cho em đi theo, em muốn cùng đi tìm anh
Ty với chị, em cũng muốn gặp cả mẹ em nữa.
- Em còn nhỏ quá, phải ở nhà trông nom bà cho
bà vui. Chị sắp ra ngoài đó, chưa chắc đã
gặp được anh ngay, đầu tiên chị định tìm
đến chỗ mẹ em, chị sẽ gặp mẹ em, các em em
trước, rồi sau liệu tính dần dần.
Cái ngực lép kẹp của tôi phập phồng, tôi
thấy nghẹn ngào trong cổ họng, rồi tôi thở
khò khè, đầu óc vất váng, thế là lại bắt
đầu một cơn hen.
- Anh ấy bị động kinh hay sao ?
Diễm lo lắng kêu lên. Chị Tâm bế tôi đặt
xuống phản, lúng túng chưa biết xoay xở ra sao
thì bà tôi bảo :
- Cho nó chiêu một ngụm nước mưa, để nằm im
một lúc là khỏi.
Diễm chạy ra sân múc một gáo nước trong bể
mang vào đưa cho chị Tâm, tôi cố gắng bưng
cái gáo dừa uống vội một ngụm, nước nghẹn
làm tôi sặc sụa, lát sau thấy tỉnh táo dần,
tôi vẫn nằm đó, mắt nhìn lên nóc nhà, lại
như mọi khi, bắt đầu nghĩ vẩn vơ, tưởng
tượng ra đủ thứ chuyện trên đời. Tôi hình
dung rõ ràng cảnh mẹ tôi gặp chị Tâm, hình
dung như thật, chị Tâm khoác tay nải, mặc cái
áo cánh nâu, mồ hôi mồ kê vã đầy trên
mặt, ra ngoài đấy không mặc áo trắng được
nữa vì sợ máy bay, đường lại lấm bụi, làm
gì có xà phòng. Mẹ tôi ôm lấy chị hỏi tin
tức về bà cháu tôi đang sống trong này ra
sao, rồi mẹ dắt chị ra ngoài suối tắm rửa cho
lại sức. Con suối nằm khuất ở mé rừng, có
những cây mua cây sim, đàn bướm vàng đậu
lên đậu xuống. Chị Tâm và mẹ tôi giục nhau
cởi áo cùng lội xuống dòng nước ngâm mình,
tóc mẹ tôi cũng bó gọn trên đầu thành búi
như tóc chị, mẹ tôi hỏi, thằng Bình ở nhà
hư lắm phải không, chị Tâm bảo nó ngoan và
lớn lắm rồi, sắp sửa đi bộ đội được rồi
thím ạ... Tôi cứ nằm nghĩ miên man như thế
rồi thiếp đi lúc nào không rõ, tỉnh dậy thì
trời đã tối. Cả nhà ngồi ăn cơm trên thềm,
bóng đêm mờ mờ ánh sao, trong nhà có một
ngọn lửa le lói bập bùng, đó là cây nến
đặt khuất trên bàn thờ. Ông Chánh vừa ăn
vừa ho húng hắng, rồi ông kêu mệt xin phép
bà tôi đi nằm sớm. Chị Tâm buông bát đũa
chạy vào nhà rũ giường chiếu cho ông. Lát
sau quay ra ăn tiếp - Còn Diễm dỗ tôi cố ăn
thêm bát cơm nữa, tôi nghe bùi tai, bằng lòng
đưa bát cho cô đơm. Mọi người giục nhau đi
ngủ sớm. Tôi nằm với ông Chánh ở một gian,
gian bên kia có một cái giường nữa, giành cho
ba người đàn bà - Ông Chánh trở mình thao
thức, tôi khe khẽ hỏi ông :
- Liệu đêm nay đã có người về đón chị
Tâm chưa ?
- Không đêm nay thì đêm mai, lúc nào cũng
phải sẵn sàng, họ đến là đi liền. Sao cháu
chưa ngủ ?
- Cháu đợi, với lại cháu đã ngủ một giấc
lúc chiều rồi.
Ông Chánh cũng không ngủ được. Ông nằm kể
chuyện cho tôi nghe. Ông kể chuyện Sơn tinh
Thuỷ tinh. Thần sông dâng nước lên ngập ngang
núi, thần núi dâng núi lên cao hơn, cao chạm
mây. Nước phải rút, con sông lại chảy xuôi
êm ả, thần núi mở đám cưới rước dâu về
nhà, dân khắp vùng nô nức trảy hội. Họ mừng
cho đôi trai gái nên vợ nên chồng. Người
trai gan góc dũng cảm, người gái xinh đẹp
nết na... Chuyện cổ tích mà hao hao như chuyện
hôm nay ở giữa trần gian. Ðấy đúng là câu
chuyện của anh Ty và chị Tâm rồi. Trong chuyện
của ông kể đêm ấy chỉ thiếu có một điểm,
đấy là cảnh người con gái kia không dám lao
qua đồng nước, không dám lặn lội trong đêm
tối để đi đến với người mình yêu mà
thôi. Cô ta còn kém xa chị Tâm.
*
* *
Nửa đêm trên
núi có động. Tiếng súng bắn nhau loạn xạ,
tắc bọp, liên thanh rồi súng cối. Ðại bác
từ các đồn bên kia sông bay đến ù ù như
trời bão. Mảnh sân gạch sáng bừng trong ánh
những trái hoả châu. Ông Chánh gọi :
- Chui cả xuống gầm sập đi, quân ta về nhổ
bốt đấy.
Chúng tôi chui rúc vào gầm cái sập gụ đặt
trước gian thờ. Chị Tâm giục :
- Thầy còn đứng ngoài ấy làm gì, ngộ nhỡ
nó bắn vào nhà thì làm sao.
- Tao thì không cần, chết lúc nào cũng
được, tao muốn xem anh em mình hôm nay đánh
đấm ra sao, hay lại chỉ đì đọp vài phát
rồi chuồn. Có cái đồn bằng cái vẩy ốc mà
chẳng hiểu sao suốt mấy năm không lấy nổi,
bao nhiêu chủ lực biến đi đâu, mấy cậu du
kích cà mèng thì xoay xở thế nào nổi với
chúng nó. Ðã bao nhiêu lần tao nhắn ra bảo
muốn lấy đồn thì phải gọi chủ lực về,
đừng để du kích quấy rối chỉ thêm tốn đạn
mà rồi khổ dân. Ðám du kích cho người đến
trách tao là có ý coi thường họ, họ bảo có
ngày họ sẽ làm cỏ bọn giặc trên núi cho mọi
người mở mắt xem. Nghe kiểu đánh chác thế
này thì lại vẫn là mấy anh chàng ấy mất
rồi, nước mẹ gì mà bảo người ta phải mở
mắt.
Có tiếng chó
sủa ran, rồi tiếng chân rậm rịch ngoài ngõ.
Một tiếng gọi khe khẽ :
- Cụ Chánh, cụ Chánh !
Cụ Chánh chạy vội ra mở cổng. Bóng mấy anh du
kích đi vào nhà.
Họ thì thầm với cụ :
- Hỏng cả rồi, có một đồng chí nằm lại
trong hàng rào chúng cháu không lôi ra
được... một người bị trúng đạn chúng cháu
cõng được về...
- Ðể ở đâu ?
- ở ngoài ngõ thượng, giờ cụ bảo nên dấu
anh ấy vào chỗ nào cho tiện, nhờ cụ chăm non
giúp cháu một và ngày, rồi sẽ có người mang
anh ấy đi.
- Các chú đánh đấm như cứt, chưa chi đã
chạy, chưa gì đã chuồn, bắn có mấy phát
như mấy cái rắm mà để xẩy ra bao nhiêu rắc
rối. Nhanh nhanh dấu anh ấy vào sau chùa cho
tôi, để tôi cùng ra với, ngoài đó đã có
sẵn một cái hầm kín rồi.
Mấy anh du kích bị ông cụ mắng chỉ đứng im,
rồi họ chạy theo ông ra ngoài ngõ, tiếng báng
súng lưỡi lê va đập loảng xoảng - gần sáng
ông cụ về, đóng cổng thật chặt, lại thắp
ngọn nến cho nhà sáng lên, rồi thủng thẳng
nói :
- Số mày khổ lắm con ạ, vợ chồng mày rồi ra
có nhẽ sẽ sa vào cảnh Ngưu Lang Chức Nữ, cái
người thầy định nhờ đưa mày ra với chồng
giờ cụt một chân mất rồi, mày phải ở lại lo
thuốc thang băng bó giúp người ta cốt làm sao
đừng chết là may.
- Mai con qua Ðáp Cầu kiếm thuốc, chắc là kịp
thầy ạ.
- ừ, mai dẫn con Diễm về nhà nó luôn, ở bên
này lâu không hay gì.
Ngồi trong gầm phản Diễm run rẩy đặt tay lên
vai tôi. Nó ép mình vào lưng tôi, hơi thở
của nó thổi nóng cả mang tai tôi. Bàn tay tôi
toát mồ hôi, tôi xoay người lại nắm chặt
lấy cổ tay của nó.
Sáng hôm sau
bà cháu tôi chào ông Chánh để về nhà.
Chúng tôi đi thêm một đoạn đường cùng chị
Tâm và Diễm. Con đường làng chạy dưới chân
núi với những bậc đá cùng những bức tường
cũng bằng đá nhấp nhô chỗ thấp chỗ cao.
Người trong xóm quẩy thùng xuống giếng gánh
nước chuyện trò rầm rì. Những cái giếng
cũng được xây bằng đá, nước trong vô
cùng. Tôi ngoái nhìn ngôi chùa nằm trong rừng
cây cổ thụ âm u, chị Tâm kéo tay tôi đi
nhanh khi qua cổng chùa.
- Mấy người kia đứng lại !
Có tiếng quát. Một tên lính dõng đang lùng
sục trong chùa đã nhìn thấy chúng ôi. Vài
tên từ đâu chạy ra.
- Bà già này người làng nào, đêm qua ngủ
lại nhà ai ?
- Bà bá tôi ở làng trên xuống chơi từ hôm
qua, ngủ lại nhà tôi.
- Nhà chị là nhà ai ?
Một tên đội cười hềnh hệch hiện ra thật
đúng lúc :
- ồ cô Tâm con cụ Chánh, người nhà mình chứ
ai. Thế cô Tâm hôm nay đi đâu sớm vậy.
- Tôi đưa bá tôi và hai đứa em về nhà, các
ông để chúng tôi đi.
- Ðêm qua du kích về khiêu chiến, một tên
chết còn nằm trên núi chưa chôn, một vài
tên bị thương có vết máu dẫn xuống làng.
Chúng tôi được lệnh lục soát, không cho
phép ai ra khỏi làng. Nhưng nể cô là chỗ quen
biết, tôi để cho đi đấy.
- Cám ơn thầy đội.
- Ðừng gọi tôi thế. Tôi vẫn biết cô có ý
khinh ghét cái nghề này, chỉ cân cô nói với
tôi một tiếng tôi xin bỏ mũ áo về sống cùng
cô ngay.
- Tôi là gái đã có chồng...
- Sá gì, người chết như rạ, đêm nào cũng
có, nơi nào cũng có, ở đâu súng nổ là ở
đó có người chết, liệu cô có chờ mãi
được anh ấy không. Tôi cũng xin thành thật
nói ra như thế.
- Chào thầy đội, chúng tôi xin phép đi kẻo
muộn.
Tên đội đứng chống nạnh, nhìn theo mấy bà
cháu chúng tôi. Hắn nghĩ ngợi gì mà lặng
lẽ, lạnh lùng. Con sông Cầu đang mùa nước.
Nhiều bãi dâu bị ngập. Bìm bịp lại kêu.
Những tiếng kêu khắc khoải. Những cánh chim
đỏ rực như những đốm lửa. Chúng xà xuống
bay lên thấp thoáng. Chị Tâm và bà tôi im
lặng bước ở phía trước. Không ai nói gì
với nhau. Tôi đi bên Diễm
- cô bé có đôi mắt thật lạ, một đôi mắt
mở to khác thường, lúc nào cũng đầy lo âu,
áo dài lật phật trong gió, mái tóc ngắn ngủn
bỏ xoã nhưng chưa chấm vai. Một đôi vai gầy
mỏng và đôi cánh tay lóng ngóng như thừa.
Ðến chỗ rẽ xuống cánh đồng, chúng tôi dừng
lại chia tay nhau.
Chị Tâm nghe bà tôi dặn gì đó chỉ gật đầu
vâng khe khẽ, còn Diễm thì chào bà chào tôi.
Giọng nói nghe khàn khàn, âm ấm, mà cũng
nằng nặng như tiếng làng tôi. Khi đã về tới
giữa đồng, ngoái nhìn lại tôi vẫn thấy họ
trên con đê xa xa như hai chấm trắng di động,
như hai bóng chim bay ở cuối trời.
Tôi rùng mình nhớ lại đôi mắt sáng rực của
cô bé cùng tuổi. ở đó có một nỗi buồn khó
hiểu đặt vào tôi. Sẽ chẳng bao giờ tôi còn
được gặp lại cô bạn ấy, đấy là lần duy
nhất trong một đời người chúng tôi có dịp
biết nhau, cũng chỉ là một thoáng. Giờ đây
tôi đã năm chục tuổi, ngồi viết những dòng
hồi tưởng này tôi vẫn như đang thấy cô
nhìn vào tôi mà chẳng chịu nói gì. Còn tôi
thì biết nói như thế nào đây, có lẽ tôi
đã có một tình yêu từ thuở lên mười chăng
- một tình cảm như thế nào đó, không hẳn
là yêu nhưng cũng gần như vậy, thật không
sao diễn đạt nổi bằng lời.
Về sau lớn
lên, tôi nghe nói cô đã thành một ca sĩ có
giọng hát tuyệt vời. Nhiều đêm giữa cuộc
chiến nằm trên võng trong rừng cao su ven
thành, nhìn vào quầng sáng của Sài Gòn, vặn
nho nhỏ chiếc máy thu thanh tôi vẫn thường
bắt gặp giọng hát của cô, một giọng trầm,
nồng cháy và ngột ngạt. Tôi nhớ cô đã hát
như sắp nức nở. "Ðôi vai em gầy, vòng
tay ôm lấy tiếc thương vơi đầy... Ðường
trơn xa ngái bàn chân dẫm gai"...
*
* *
Tôi đón hoà
bình trong tâm trạng nửa buồn nửa vui. Người
từ vùng tự do sau nhiều năm chạy giặc lần
lượt hồi cư về làng. Lũ trẻ chúng tôi đeo
khăn quàng đỏ mặc quần xanh áo trắng mang
trống đi đón các anh trong đội giảm tô cải
cách. Sau vào tuần hội họp thâu đêm suốt
sáng bà tôi bị qui địa chủ. Cũng chẳng oan
gì vì nhà vẫn còn nhiều ruộng, nhưng cũng
chẳng xấu xa nỗi gì vì địa chủ chẳng qua
cũng chỉ là chủ đất, địa chẳng là đất
thì còn là cái quái gì. Ðấy là một kiểu
cãi bây chứ trong lòng hai bà cháu là ngổn
ngang bao nhiêu tủi nhục. Người ta có ý ra
mặt lánh xa tôi. ở các làng lân cận chiến
sĩ Ðiện Biên nô nức trở về, anh nào anh ấy
huân chương huy hiệu chói loà trên ngực. Họ
kể chuyện quân ta hết bò vào lại bò ra, quân
địch chui rúc như nhím như chuột. Bà tôi
buông gọn một câu chắc là trên đó phải có
lắm người chết. Người chết chẳng kể gì
được với ai, nhưng đấy mới là những người
đáng thờ. Còn sống mà về với cha mẹ vợ con
thì cho dù có tài giỏi mấy cũng cứ nên bớt
mồm mới phải. Vài tháng sau bà tôi qua đời.
Ðám tang vắng vẻ. Có người đưa tang đến
ngang ruộng mình thì tạt vội xuống nhỏ có
lúa, làm như nhân tiện ra đồng. Một lần nữa
tôi lại đóng vai mũ gậy, lần này thì tôi
không cần ai bế nữa.
Khi chôn cất
xong, mọi người tản mát ra về, chỉ còn một
mình tôi ngồi lại. Chính vào phút cô đơn
ấy thì anh Ty đột ngột hiện ra, vừa đi vừa
chạy trên bờ chuôm. Tôi ôm chầm lấy anh, oà
lên khóc. Suốt ngày hôm ấy tôi không sao
khóc được. Anh Ty mặc bộ quần áo đã bạc
phếch, cái áo ba mươi sáu đường gian khổ,
trên ngực trắng trơn chẳng thấy có huy hiệu
huân chương gì hết. Anh nói thật vắn tắt.
- Anh vừa gặp mẹ em và các em của em trên
Thái Nguyên, chắc chỉ nay mai là về đến nhà,
còn kịp làm ba ngày cho bà. Anh tiếc là về
hơi muộn, không được gặp bà. ở nhà em có
tin tức gì về ông Chánh và chị Tâm dưới
Sơn ?
- Ðịa chủ cường hào, ông Chánh sắp bị đem
lên núi đấu tố, người ta đang dựng kỳ đài
để toà án nhân dân ngồi luận tội. Chị Tâm
bị ép phải lấy một thằng đội trên đồn,
đã có với nhau một thằng con trai, họ chuồn
vào Nam cả rồi. Hôm sắp đi chị ấy lén lên
chào bà em, dặn em mấy lân, nếu anh có về
thì nói xin anh tha thứ cho chị ấy.
- Chị chú không có tội tình gì.
- Anh về thăm làng có được lâu không ?
- Anh em mình ngủ với nhau một đêm cho vui, mai
anh đi sớm.
Nhưng ai vui,
anh không vui, tôi cũng không vui. Nhà anh vốn
nghèo, cha mẹ chẳng còn, mái nhà xưa đổ nát
giờ chỉ là một mảnh vườn hoang, có mấy
đống rơm của ai chất nhờ trong đó. Anh dẫn
tôi cùng vào để nhìn lại một lần cảnh cũ.
Vậy mà cũng thấy bâng khuâng. Bầy chim sẻ
đang mổ nhau chí choé nhác có bóng người
liền bay vù cả lên. Trên nóc mấy đống rơm,
sau những cơn mưa mùa hạ nấm mọc trắng xoá.
Anh Ty ngả mũ ra leo lên nhặt đầy một mũ nấm
mang về nhà tôi. Hai anh em nấu bát canh nấm
đặt lên bàn thờ cúng bà. Khi còn sống bà
tôi thường khen nấm rơm nấu canh gia thêm
chút mắm cua là ngon lắm. Bà cắn một con cua
muối, và miếng cơm nguội, thế là xong bữa
rồi. Anh Ty tính tình phóng khoáng, dễ dàng
nhưng lại rất ít lời. Ðêm đó nằm gác chân
lên bụng anh tôi hỏi :
- Anh có đánh ở Ðiện Biên Phủ không ?
- Ðánh từ đầu đến cuối.
- Anh phất cờ xông vào hầm...
- Không. Lúc ấy anh không ở đó.
- Vậy anh ở chỗ nào?
- Anh phá bom bên ngoài có được vào sâu
đâu.
- Thế thì anh kể chuyện phá bom vậy.
- Có gì mà kể. Gặp bom nổ chậm thì bảo nhau
chạy lên tháo kíp, lăn nó xuống vực, anh
thấy công việc cũng đơn giản. Sự thật đời
anh không có chuyện gì nên xem là đơn giản
cả. Chẳng qua anh không thích nói về mình mà
thôi. ít lâu sau tôi vớ được một cuốn hoạ
báo "Hình ảnh Việt Nam" mở ra xem thì
thấy có ảnh của anh in trong đó. Anh được
phong anh hùng phá bom, huân chương quân công
hạng nhất.
Sáng hôm sau
chúng tôi dậy từ tinh mơ, anh Ty bắt tay tôi
rồi thủng thẳng nói :
- Bà già thì phải mất, cũng là lẽ thường.
Chú ở nhà cố học để trưởng thành, bây giờ
anh phải đi, anh kỷ niệm lại chú cái mũ nan
anh mang từ mặt trận về. Mũ anh tự đan lấy
đấy.
Rồi anh loay hoay cởi lớp lưới và lớp vải
bọc bên ngoài có đính ngôi sao cất vào túi,
trao cho tôi cái cốt tre ở bên trong. Một cái
mũ với hình những quả trám đều đặn, nan tre
già vót kỹ lưỡng nhẵn bóng, trông đẹp quá,
tôi chụp ngay chiếc mũ anh cho lên đầu.
- Em cũng xuống Sơn bây giờ đây, xuống thăm
cụ Chánh xem tình hình thế nào. Cháu nội một
mụ địa chủ đến thăm một tên địa chủ, làm
đếch gì mà phải sợ, đằng nào chả là đã
có liên quan.
Anh Ty cười, đấm nhẹ vào ngực tôi. Hai anh em
chia tay ở trước miến cô Nỗng. Tôi một mình
bóng đi trên cánh đồng, qua mộ bà, qua những
cái chuôm quen thuộc. Cụ Chánh đã bị đuổi
ra ngoài vườn chùa. Có anh du kích bị đánh
gãy đùi từng sống trong căn hầm nơi đây.
Có người chị gái từng tới nơi này săn sóc
anh, mỗi lần mang cháo mang thuốc ra đây chị
vẫn đóng áo dài, tay xách theo làn trong đó
có đủ hương hoa như một người ra chùa lễ
phật. Cụ Chánh ngồi tiếp tôi trang trọng
dưới một vòm thị um tùm. Bộ ấm chén tàu
bày trên một phiến đá nhẵn bóng.
- Ta nhóm lá đun siêu nước, uống với cậu ấm
trà mạn bên bàn thạch, kể cũng là tiên cảnh
đấy chứ. Tôi kể bà tôi vừa mất, mẹ tôi và
các em sắp về, có thể gia đình tôi cũng sắp
bỏ làng mà tìm đến một nơi nào đó. Ông
Chánh lắc đầu ra ý bảo dúng là cả một cảnh
tang thương. Ông ngẩng mặt dăm dăm nhìn lên
núi. Rồi ông đứng dậy, rủ tôi cùng vào
trong chùa. Hai ông cháu đốt một bó hương
thật lớn, đến từng bệ Phật, gặp bát hương
nào cũng cắm vài nét. Ðã từ lâu chùa vắng
bóng sư bóng sãi, thì ông ngồi xuống xếp
bằng tròn làm sư, ông thong thả cầm chày
thỉnh từng hồi chuông. Tiếng chuông ngân nga
hoà quyện vào không gian tĩnh mịch, hương
khói dâng lên thơm lừng, đánh thức đàn dơi
từ trong bóng tối bay ra chao liệng. Ông khấn
Trời Phật, vĩnh biệt quê cha đất tổ. Ông cho
tôi biết ông phải xuống Phòng ngay hôm nay
để kịp chuyến tàu vét vào Nam. - Cháu gửi
ông chiếc mũ nan này cho chị Tâm trong đó.
Ðây là chiếc mũ anh Ty tặng cháu. Anh ấy về
nhà có một đêm rồi đi ngay. - Nó đi là
phải, chắc cũng buồn. Chúng tôi quay lại khu
vườn, ông nâng chén trà trên tay, cảm khái
ngâm nga : "Quê hương nghĩa nặng tình
sâu, bể dâu biến đổi biết đâu là
nhà..."...
Chiều ấy xuôi
theo bờ sông Cầu tôi tiễn chân cụ Chánh một
đoạn đường. Cụ đi chân tay không, như
người dạo mát, đầu chụp cái mũ nan tôi gửi
cho chị Tâm. Bóng cụ đổ dài, lầm lũi.
Giữa tháng 5
năm 1975 lấm láp bùn đất tôi vào đến Sài
Gòn, gặp chị Tâm được biết cụ còn sống
thêm mười năm nữa mới mất, tim cụ bị đau
đã lâu. Tôi gặp chị ở chợ Bến Thành, trong
lúc chị đang ngồi bán hoa quả - chị ngỡ
ngàng mất vài phút mới nhận ra tôi. Chị kêu
lên như người phải bỏng, sao mà tôi sớm
già, chắc là bị sốt rét nhiều. Vừa bổ xoài
mời tôi chị vừa tíu tít hỏi chuyện quê nhà,
duy chỉ có anh Ty là chị tịnh không đả động
đến. Tôi lấy làm lạ, không rõ vì sao. Chị
dẫn tôi về nhà mình, một căn nhà khá rộng,
có hai buồng, lớp tôn. Căn nhà nằm sâu trong
một lối ngõ gần trường đua Phú Thọ. Người
chồng chị, thầy đội năm xưa nay lụ khụ như
một ông già, răng rụng gần hết, khuôn mặt
nom méo mó. Họ được hai đứa con, đứa đầu
vừa bỏ ra nước ngoài vài hôm trước, chưa
có hồi âm. Tôi ở lại ăn bữa cơm với vợ
chồng chị Tâm và cháu bé. Ðồ đạc trong nhà
thấy cũng sơ ài, bàn ghế nhựa, chén bát
lồng bàn tất cả đều nhựa. Nhưng ở một góc
tường có treo một cái mũ nan. Cái mũ nan
Việt Minh. Thấy tôi nhìn vào chiếc mũ hơi
lâu, người chồng rụt rè nói : "Tôi có
tội nhiều quá chú ạ". Tôi vẫn im lặng
không bắt chuyện, chị Tâm lúc đó mới lên
tiếng : "anh Ty cũng đang ở trong này phải
không chú ?". Tôi nói với vợ chồng chị
rằng anh ấy đã hy sinh từ ba năm trước rồi,
hy sinh ở chiến trường Tây Nguyên. Vì một
trái bom nổ chậm, lúc đó anh đang là trung
đoàn trưởng của một trung đoàn công binh mở
đường. Khi tôi tới trung đoàn anh công tác,
anh em đã dẫn tôi tới viếng mộ anh, nhưng
đấy chẳng qua cũng chỉ là một ngôi mộ
tượng trưng thôi. Xác có còn đâu mà nói
đến mộ. Chị Tâm buôn bát đũa xuống bàn,
lẳng lặng bỏ vào buồng trong. Người chồng
ngồi ngay như ngỗng ỉa. Một lát sau anh đứng
dậy bắc ghế lấy chiếc mũ nan trên tường mang
đặt vào bàn thờ, rồi thắp nén hương. Cử
chỉ ấy làm tôi động lòng và bắt đầu thấy
mến anh.
Lại phải có
trên mươi năm sau đó, một lần qua Tây Âu
vào thăm một cái chợ của người Việt, tôi
không ngờ lại gặp chị Tâm. Trước mặt chị
vẫn chỉ thấy toàn rau quả nhiệt đới. Có đủ
cả gừng, tỏi, hành răm, trăm thứ quê nhà.
Chị gọi tôi ơi ới. Nói đùa rằng chẳng làm
cách nào tránh nổi tôi, hoá ra gầm trời cũng
hẹp, cậu có định sang đây giải phóng chúng
tôi lần nữa hay không thì bảo ! Tôi cười
khì. Chị lại than thở ở bên này kiếm được
miếng ăn cực nhọc lắm, mùa đông nhìn thấy
tuyết rơi mà sợ. Từ nơi chị ở tới chợ phải
qua ba tuyến xe, hơn một giờ đi bộ nữa, vậy
là ngót năm chục cây số. Cả hai người con
chị đều sống ở thành phố khác, chúng đã
có gia đình riêng, năm thỉnh mười thoảng
mới gọi điện về xem mẹ còn sống không - Nói
dại chứ nếu có mệnh hệ nào thì mình đã
chết thối ra đấy chúng nó cũng chưa biết mà
về. Căn hộ của chị lạnh lẽo như một cái
hộp kín, treo lơ lửng ngang trời, ở tầng thứ
ba mươi mốt. Lắm đêm nằm một mình trong
đó, chỉ mong được quay về nước, cháo bẹ
rau măng cũng còn vui hơn. Nhưng con cái đang
ở bên này cả rồi, sau khi chồng mất chị
được chúng gửi giấy về bảo lãnh sang đây.
Chị mời tôi về qua chỗ chị ở để biết, tôi
nói chị em gặp được nhau là mừng, về nhìn
một căn phòng như thế phỏng có hơn gì.
Nhưng chị nghiêm mặt bảo, thì chú cứ qua chị
một lát cho chị yên lòng, chị vẫn có bàn
thờ anh Ty trong căn buồng ấy, cái mũ nan chị
cũng vẫn mang theo đặt trên bàn thờ anh. Ôi
chao, hoá ra cái mũ anh Ty cho tôi ngày nào
đến nay chị Tâm còn giữ được. Nó là kỷ
vật, là một mảnh hồn của chị em tôi. Vậy
thì tôi phải cùng chị đi đến căn buồng ở
tít trên cao kia rồi. Hai chị em bước đi bên
nhau giữa một thành phố xa lạ, hết sức là ồn
ào. Tôi thấy se lòng khi nhìn vào mái tóc
đã bác trắng của chị, bất giác tôi buột
miệng hỏi :
- Diễm giờ đang ở nơi nào ?
- Ca-li-phoóc-nia. Cô ấy có lần gửi thư cho
chị, nhắc đến chú, hỏi chu có còn bị bệnh
hen hành hạ nữa không. Cô ây hát ở một quán
có tên là "Quê mẹ", khi nào có việc
sang đó, ghé qua chắc chắn sẽ gặp được
nhau, chị đã viết thư kể chuyện gặp lại chú
ở Sài Gòn năm nọ, nói chú là người thiệt
hay đó nghe.
Tôi thở dài.
Ôi dào, hay hớm cái nỗi gì hả chị Tâm, hả
Diễm. Chẳng qua đời mỗi chúng ta cũng giống
như con chim gì đang nhảy nhót chấp chới trên
những ngọn sóng. Chỉ những ai từng lênh đênh
ngoài khơi mới gặp loài chim ấy. Chẳng hiểu
chúng đậu vào đâu mà sống nổi, và nhờ
đâu chúng vẫn cứ cất lên tiếng hót giữa
trùng trùng sóng gió. Kiếp người tưởng như
vậy mà nào có khác nhau là bao. Tôi vẫn thấy
có tiếng hát của em, tiếng gọi của chị trong
mỗi ngày sống của mình.
Hà Nội, tháng 5-1994.
Lên đầu trang