MẢNH TR¡NG CUỐI RỪNG
Ngọc bấc cháy đã gần lụi chợt bùng
lên nổ lép bép trong chiếc ống bơ sữa bò đựng
dầu cặn. Ngoài rừng sâu tĩnh mịch vọng lại
tiếng suối chảy và tiếng kêu khắc khoải, tha
thiết của đôi chim trống mái.
Ðã khuya rồi mà
hơn mười anh em lái xe vẫn còn kẻ nằm người
ngồi ngổn ngang trong chiếc lán nứa xiêu vẹo của
tổ xăng dầu, chưa ai chịu đi ngủ. Sau tấm bìa
che bớt ánh sáng, ngọn đèn dầu cặn toả một cụm
khói lớn, soi tỏ hơn chục khuôn mặt dầu dãi và
chiếu hắt ra ngoài đoạn đường mấp mô những hố
bom và vết bánh xe tải sâu ngập gối. Ðêm nay
mưa dầm, trung đội lái xe được dịp trở về gần
đông đủ. Cái lán nứa rất ồn ào, thỉnh thoảng
một dịp cười vang lên chuyển cả rừng. Không
biết ở trên đời còn có cảnh gì vui và náo
nhiệt hơn những đêm như đêm nay, những chiến
sĩ lái xe sau nhiều chuyến rong ruổi trên các ngả
đường nay trở về gặp mặt nhau. Sau hàng chục
đêm thức chong bên tay lái, tưởng như họ cứ
nằm xuống là con mắt sẽ díp lại, vậy mà chẳng
ai buồn ngủ cả - "Xong chưa nào, đến lượt
tớ kể nhé ?" - Người này chưa nói hết,
người khác đã dặn trước như thế bằng giọng
hết sức háo hức. Hình như trong đầu từng người
đang xôn xao vô vàn hình ảnh trên dọc đường,
và chính lúc này, những hình ảnh ấy đang chen
lấn nhau đòi sống lại. - Xong chưa nào, đến
lượt tôi kể nhé ! - Một anh nằm trong góc tối
nói. - ...Một đêm, đầu tháng ba năm nay, chuyến
xe chở hàng của tôi xuất phát từ kho K3. Lần ấy
đồng chí lái phụ của tôi đánh xe đi nhận hàng
thay tôi, vì tôi đang bận dự cuộc họp các lái
xe lâu năm ở tiểu đoàn bộ. ở tiểu đoàn ra,
tôi sẽ đón xe của mình dọc đường và đi hàng
luôn. Hãy nói về cậu lái phụ của tôi một chút.
Ðấy là một đồng chí tân binh vui, trẻ, làm
việc xốc vác nhưng tính tình hơi lẳng lơ một
tý. Câu chuyện tôi kể đây cảy ra hồi tôi chạy
mấy chuyến đột xuất bên đường miền Tây. Con
đường miền Tây dạo ấy đang mùa mưa lũ, nhưng
địch cũng đánh rát lắm ; những quãng qua khe qua
ngầm nhất là quãng cầu Ðá Xanh, anh chị em giao
thông đang vật nhau với địch để quyết giữ con
đường lên biên giới.
Hôm đó trời vừa
tối, mưa lác đác, tôi ở tiểu đoàn bộ ra
đường đứng đợi xe bên đầu dốc bản Vang cháy.
Một mảnh ni lông gói chiếc võng dù cắp bên
nách, chiếc đèn pin khoác lủng lẳng trước ngực,
tôi đứng hút thuốc lá phì phèo với các vẻ ung
dung, thư thái. Phải nói, làm anh lính lái xe
suốt mùa khô sang mùa mưa, con người như đã
gắn vào buồng lái được một phút nhàn rỗi như
thế thật hiếm và quý hoá. Tôi cứ tréo chân tựa
bên gốc cây bên đường, thở khói thuốc vòng
tròn và ngắm vầng trăng khuyết mỏng manh bằng con
mắt mơ mộng. Nhưng rồi chẳng được lâu. Tôi
bắt đầu sốt ruột thấy xe cộ cứ lao qua vun vút
trước mặt như ngựa đua, thế mà chẳng thấy
đồng chí lái phụ đánh xe lên. Trời tối càng
lâu, nỗi sốt ruột của tôi càng tăng. Tôi hết
sức lắng tai vẫn chẳng nghe tiếng "Gát"
quen thuộc. Tôi bực quá đỗi ! Giữa thời chiến,
xe mình chỉ cần vượt lên thiên hạ nửa vành
bánh, khi qua phà qua ngầm đã đủ nhàn. Hơn nữa,
chuyến này, tôi đã dự định sẽ chạy sớm, giao
hàng sớm để kịp quay về giấu xe ở rừng săng
lẻ. Giấu xe ở đó thật chắc chắn, lại gần nơi
người chị ruột của tôi công tác. Tôi đã xin
phép cấp trên, trong chuyến đi hàng này sẽ ghé
thăm chị tôi. Chị tôi biên thư cứ phàn nàn :
"Ðã hơn ba năm chưa được gặp cậu Lãm
đấy !". Nhưng dầu sao đó cũng chỉ là một
việc riêng. Tôi đang bực và lo xe không lấy
được hàng hay gặp trở ngại gì, thì đồng chí
lái phụ đánh xe lên, từ dưới chân dốc, đã
bóp còi inh ỏi như xe chữa cháy. Mặc tôi gắt,
đồng chí lẳng lặng trao phiếu hàng cho tôi, vui
vẻ đặt vào trong cốp gói xôi lạc và một bi
đông nước đường. - "Chúc anh đi may mắn
nhé!" anh chàng vui tính nháy mắt ranh mãnh,
rồi phát mạnh vào vai tôi một cái đau điếng.
Xong, anh chàng co chân nhảy xuống đường. Chuyến
này, theo phân công của trung đội, chỉ mình tôi
đi. Tôi vẫn thường nhận một mình một đầu xe.
Ðồng chí lái phụ làm việc ở nhà. Từ biệt tôi
xong, đồng chí phụ lái vừa đi qua mấy bước đã
quay lại nắm tay nện vào cánh cửa xe sầm sầm :
- Anh Lãm này, theo phiếu giao hàng, tôi kiểm lại
thấy thiếu một chiếc lốp. Tôi đã bắt anh kho ký
nhận vào trong phía rồi đấy nhé !
- Ðược. - Tôi trả lời và rất bằng lòng về
công việc ấy.
- Còn một cái nữa, cái này có nhưng mà không
ghi trong phiếu...
- Còn gì nữa ?
- Phía sau, có một người ngồi nhờ lên cầu Ðá
Xanh đấy.
Tôi ngạc nhiên hết sức, hỏi vặn :
- Sao cậu tự động vô nguyên tắc thế hử ?
- Nguyên do thế này, anh ạ... Thế này...
Mặc dù những lý
do cho đi nhờ xe đồng chí lái phụ trình bày
đều hợp lý, tôi vẫn giận đồng chí ấy. Tôi
đoán ngay con người đang ngồi sau kia nhất định
là một cô gái. Và, trước mặt tôi liền hiện ra
cảnh tượng hết sức quen mắt : một bên là cái
vẻ nũng nịu của một cô nàng ôm chiếc nón trắng
đứng sát cửa xe, một bên là những câu hỏi ỡm
ờ của "anh tài phụ" của tôi đang ngồi
vắt vẻo trong buồng lái, một nụ cười và một
đốm thuốc lá ló ra ngoài. Thế là đủ tai hại
cho tôi rồi ! Tàn cho được câu chuyện ấy thì xe
lên sớm làm sao được ?
Ðồng chí lái xe
phụ đã quay về phía sau từ lúc nào. Tôi vẫn
còn ngồi phân vân mấy giây. Xe chạy qua bao nhiêu
chặng nguy hiểm mà trong xe lại có người đi nhờ
? Nhưng chẳng lẽ bây giờ bảo người ta xuống đi
bộ ? Thôi được ! Tôi quyết định đi. Trước
lúc mở máy. Tôi quay lại nhìn qua tấm lưới sắt
gắn sau lưng, chỉ thấy tối mò mò như hũ nút và
mùi cao su mới xông sang. Chẳng hiểu người khách
đi nhờ ngồi ở góc nào.
- Ai ngồi trong đó ? - Tôi lên tiếng, giọng hỏi
chẳng lấy gì làm ôn tồn lắm.
Không có tiếng đáp. Chỉ thấy động lịch kịch
giữa các chồng lốp ôtô ở phía sau. Rồi lại nghe
tiếng kêu lục cục khẽ như gà con cựa trong ổ.
Tôi đoán câu chuyện trao đổi giữa tôi và đồng
chí lái phụ, "người khách" đã nghe rõ
hết, và bây giờ thấy tôi lên tiếng hỏi, người
ấy sợ. Chắc người ấy đang phấp phỏng sợ tôi
không cho đi nhờ. Nhưng người đó là ai ?
- Có ai ngồi sau đó ? - Tôi nhắc lại câu hỏi,
lần này giọng đỡ gay gắt hơn.
- Tôi đây.. Tôi nhờ đồng chí lên cầu Ðá Xanh
một tẹo.
Quả tôi đoán
chẳng sai. Rõ ràng tiếng trả lời của một người
đàn bà, một cô gái, tiếng nói trong lắm và rất
bình tĩnh, cứng cỏi nữa là khác.
Mặc, tôi vẫn hỏi
gặng :
- Ðàn ông, hay đàn bà ?
- Ðàn ông !
- Thôi đi cô, đáng lý tôi đã mời cô xuống,
đây là xe chở hàng quân sự ! Cô lên cầu Ðá
Xanh có việc gì ?
- Em là công nhân giao thông. Anh gì ban nãy đã
xem chứng minh thư rồi. Em về trên đơn vị có
chút việc.
Tôi hỏi bừa một câu cho vui :
- Việc gì ? Hay là cô đi thăm chồng hay người
yêu.
- Em đi thăm người yêu đấy.
Tôi vội nổ máy
và trong bụng cũng phát hoảng lên vì cái cách
con gái ăn nói đối đáp bạo dạn nhường ấy.
Nhưng nghe giọng nói, chẳng phải giọng một câu
nói đùa. Biết đâu đấy, biết đâu cô ta nói
thật ?
- Các cậu ơi, hãy chịu khó đợi một chút ! -
Ðồng chí lái xe đang kể chuyện nằm khuất trong
bóng tối lên tiếng kêu gọi. Mọi người đang
nóng lòng muốn biết lý lịch cô gái đi nhờ xe.
Họ cứ làm ồn ào thúc giục đòi kể tiếp.
Ngoài rừng vọng
tiếng suối chảy tràn trên đá và tiếng đôi chim
kêu rụt rè ở hai góc rừng. Người kể chuyện khom
lưng qua góc ngoài tấm sạp nứa, đôi mắt nheo
tít lại vì khói, thổi tắt ngọn lửa xanh cháy
trong lòng chiếc ống sữa bò. Căn lán phút chốc
chìm trong bóng tối đầy tiếng động kỳ lạ của
đêm rừng. Câu chuyện lại được kể tiếp.
- Các đồng chí
đừng sốt ruột vì cô gái. Hãy để cô ta ngồi
đấy giữa hàng chồng lốp ôtô... Bây giờ, tôi
kể xen vào một câu chuyện nhỏ, chuyện riêng của
tôi. Tôi có một người chị ruột làm cán bộ ở
một hạt giao thông quãng cầu Ðá Xanh. Cách đây
bốn, năm năm, trong chúng ta có đồng chí nào hay
chạy con đường miền Tây, chắc còn nhớ cảnh tấp
nập, đông vui của công trường xây dựng cầu Ðá
Xanh. Từ ngày đầu mới mở công trường, chị
Tính, chị tôi, đã có mặt.
Chị tôi ở tổ đá. Những người con gái làm đá
đông lắm, có hàng trăm cô. Trong tổ đá của
chị tôi có một cô tên là Nguyệt. Phải, Nguyệt
là trăng. Cái tên khá đẹp ! Ðấy là một cô
học sinh mới rời ghế nhà trường đi kiến thiết
miền Tây. Chị tôi coi Nguyệt như một cô em gái,
rất yêu mến Nguyệt, bởi lẽ cô ta rất ngoan ngoãn
và tích cực. Bức thư nào gửi về cho tôi, chị
Tính cũng nhắc đến tên người con gái ấy, kể
lể đủ các đức tính tốt đẹp. Rồi trong một
bức thư, chị tôi bảo : "Chị đã tính toán,
đã nhằm cô Nguyệt trên này cho cậu. Trên đời
khó tìm được một người con gái như thế !"
Bức thư sau, chị tôi giục tôi lên "xem
mặt", và nói : "Chị cũng đã nói thẳng
ý định của chị với cô ấy. Nó chỉ đỏ bừng
mặt lên không nói gì. Nhưng khi nào chị nói
chuyện về cậu, về cái chuyện cậu trốn nhà đi
tuyển bộ đội, cô ta ngồi nghe rất chăm chú. Cậu
tranh thủ lên ngay nhé. Nguyệt nó cũng đang muốn
gặp cậu. Chỉ cần hai người gặp nhau một lần là
xong thôi !" Hồi đó, sau khi đi bộ đội, tôi
làm chiến sĩ lái xe phụ thường chạy các tuyến
đường ngoài Bắc. Tôi cũng đi vài chuyến miền
Tây, có ghé vào công trường thăm chị Tính và
cô Nguyệt, nhưng không gặp cả hai người. Trong
những bức thư gửi cho chị tôi, tôi thường viết
thêm đôi câu hỏi thăm Nguyệt và ngụ ý hứa hẹn
gặp Nguyệt. Chắc chắn Nguyệt sẽ được xem tất
cả những lá thư của tôi gửi cho chị Tính nên
đã hiểu biết về tôi ít nhiêu. Giữa chốn rừng
núi heo hút, một bức thư đến đều xem như của
chung của mọi người. Bẵng đi mấy năm, chị tôi
về Hà Nội học. Rồi xảy ra cuộc kháng chiến
chống Mỹ ; tôi xuất ngũ rồi tái ngũ. Bao nhiêu
đường sá miền Tây và miền Trung, địch bắn phá
dữ dội ! Tôi chưa kịp lấy vợ nhưng câu chuyện
cô Nguyệt và những bức thư của chị Tính tôi
đã quên từ lâu. Chị Tính đi học gần hai năm
lại quay về tuyến đường miền Tây. Từ nơi rừng
núi quen thuộc, chị lại biên thư cho tôi, lần
này kể chuyện địch bắn phá cầu Ðá Xanh, chuyện
các đơn vị giao thông quyết bảo vệ đường cho
xe chạy. Những chuyện ấy với tôi chẳng có gì
lạ. Nhưng lạ lùng hết sức, chị tôi nói quả
quyết Nguyệt vẫn nhớ và đang chờ tôi. Qua mấy
năm, có bao nhiêu người hỏi, nhưng cô ta đều
trả lời đã trót hẹn với một người rồi. Chị
tôi cho biết
Nguyệt đang làm ở ngầm, một nơi rất ác liệt,
vẫn ở gần chị. Cô ta giờ đã lớn, càng ngoan
ngoãn, dũng cảm và lại xinh đẹp hơn trước nữa
kia. Thú thật, lần này cầm lá thư của chị Tính,
tôi rất sung sướng và cảm động. Và cũng thật
kỳ lạ ! Qua bấy nhiêu năm sống giữa bom đạn và
tàn phá, mà một người con gái vẫn giữ bên lòng
hình ảnh một người con trai chưa hề gặp và chưa
hứa hẹn một điều gì ư ? Trong lòng cô ta, cái
sợi chỉ xanh nhỏ bé và óng ánh, qua thời gian và
bom đạn, vẫn không phai nhạt, không hề đứt ư ?
Hạnh phúc người con gái ấy đem đến cho tôi quá
nhiều. Cho nên tôi cảm thấy mình như một kẻ
chịu ơn. Tôi phải gặp Nguyệt ! Tôi quyết định
biên thư cho chị tôi, hẹn ngày gặp Nguyệt ! Ðấy
là cái ngày mà tôi đã được đại đội cho
phép nghỉ. Sau chuyến xe chở lốp lên kho tiền
tiêu, tôi sẽ quay về cánh đồng săng lẻ giấu xe,
rồi ghé vào chỗ chị Tính làm việc. ở đó, chị
Tính sẽ dẫn tôi xuống đội của Nguyệt. Tôi sẽ
ở lại chơi một hôm, với tư cách là... khách qua
đường của đội nữ công nhân giao thông bến
ngầm. Chiếc Gát lăn bánh rất êm trên đường.
Ðêm rừng thật vắng vẻ và yên tĩnh. Tôi đặt
nhẹ mấy ngón tay trên vòng lái, mắt nhìn phóng
về phía trước, và hình dung trước lúc tôi đến
giữa đám các cô gái nghịch như quỷ sứ. Gặp
tôi, Nguyệt sẽ nói rất ít, còn các cô bạn thì
sẽ làm loạn lên. Nhưng chẳng hề gì, họ đều là
những người bạn của anh em lái xe, đều là những
người con dũng cảm, chân thực và mến khách. Tôi
đi được mươi cây số thì gặp một đoàn xe
xích kéo pháo kềnh càng xuôi xuống, đành phải
đỗ xe bên đường để tránh. Tôi tranh thủ chui
xuống gầm xe, soi đèn pin xem lại chiếc bóng
đèn. tôi đang loay hoay vặn chiếc bóng thì nghe
tiếng hỏi bên cạnh :
- Anh đi bóng quả táo hay quả dưa đấy ?
- Ai kia ?
- Em đây mà !
À, CÔ GÁI ĐI NHỜ XE. TRONG ÁNH ĐÈN
gầm hắn xuống mặt đường hiện ra ngay trước mũi
xe một đôi gót chân bóng hồng, sạch sẽ, đôi
dép cao su cũng sạch sẽ, gấu quần lụa đen chầm
chầm mắt cá. "Ra vẻ cô này không phải
người lao động rồi - Tôi nghĩ - Hay là người ta
đi thăm chồng hay đi thăm người yêu thực ?"
Tôi chui từ gầm xe, đưa hai tay dụi mắt :
- Chào cô, lần sau nếu xe dừng, cô đừng nhảy
xuống như thế này nhé !
- Nhưng mà ngồi trong ấy mùi cao su khét quá, anh
cho em đứng ngoài này thở một tý.
Qua làn ánh đen tù mù của đoàn xe xích lao đi
ầm ầm bên cạnh, tôi kịp nhận thấy vẻ xinh đẹp
của cô gái, một vẻ đẹp giản dị và mát mẻ như
sương núi toả ra từ nét mặt, lời nói và tấm
thân mảnh dẻ, khác hẳn với nhiều cô gái công
trường thường cô nào cũng thấp và đẫy đà.
Cô ta mặc áo xanh chít hông vừa khít, mái tóc
dày tết thành hai dải. Chiếc làn và chiếc nón
mới trắng loá khoác ở cánh tay một cách nhẹ
nhàng.
Tôi hỏi :
- Cô làm ở ngầm Ðá Xanh hay chỉ về đấy thăm ai
?
Trên khuôn mặt sáng sủa thoáng một nét e thẹn :
- Em làm ở ngầm...
- à, quên, tôi chưa kịp hỏi tên cô đấy nhé.
- Em là... Nguyệt !
- ...à thế...!
Tôi vờ như không, vội đưa mắt ngắm cô gái một
lần nữa thật kỹ lưỡng. Rồi, tay mở rộng cánh
cửa buồng lái, tôi vồn vã mời :
- Sau ấy mùi cao su khét lắm đấy. Mời cô lên...
Bên cạnh còn chỗ ngồi...
Ðoàn xe xích kéo
pháo 57 mới khoẻ làm sao. Ðường sá, núi non cứ
rung chuyển ầm ầm. Trái tim tôi cũng muốn nảy
lên trong lồng ngực.
Cô gái cố ý ngồi sát mé cửa, chiếc làn cói ôm
gọn trong lòng, giữa hai chúng tôi để một quãng
cách rộng. Thú thật, trong đời lái xe của tôi,
chưa bao giờ tôi mời một cô gái lên ngồi trong
buồng lái. Ðây là một trường hợp đặc biệt.
Tôi với tay bật ngọn đèn nhỏ trong buồng lái.
Cô gái ngắm "cái nhà" cỏn con của tôi
bằng cặp mắt tò mò và hơi rụt rè. Tôi bắt
đầu hỏi dò khéo léo :
- Ở ĐỘI NGẦM CỦA CÔ, CÓ NHIỀU CÔ TÊN
là Nguyệt lắm thì phải ?
- Sao anh biết ?... Ðội em có ba Nguyệt. Nhưng một
người đã hy sinh, chỉ còn em và một chị nữa là
hai thôi.
- Cô Nguyệt hy sinh bao giờ ? - Tôi vội hỏi, rõ
ràng nghe tiếng nói của mình mà như của người
khác.
- Cách đây đã ba, bốn tháng, trong trận địch
ném bom đánh sập hẳn cầu Ðá Xanh. Chị ấy chiến
đấu dũng cảm lắm, mà ngày thường lại hiền
lành, ai cũng tiếc.
- Cô ấy có chồng chưa ?
- Chưa. Hình như mới có người yêu.
Tôi nắm vòng lái thật chặt. Mặt đất dưới bánh
xe, như đang nghiêng ngả, đảo lộn. Tôi cho xe đi
chầm chậm và lại hỏi :
- Còn cô Nguyệt thứ hai ?
- Chị ấy đã bốn con rồi ! Chúng em thường gọi
đùa là chị Nguyệt "lão". Sao anh hỏi tỉ
mỉ vậy ?
Tôi thở phào và nói đùa một câu nhạt thếch.
Lòng tôi rối như
tơ vò. Chẳng lẽ lại đi hỏi thăm cô ta có biết
chị Tính hay không? Chỉ cần hỏi thế, mọi sự sẽ
vỡ ngay, nhưng tôi vẫn không muốn hoặc không dám
hỏi. Tôi không muốn đi sâu vào câu chuyện riêng
giữa chuyến công tác. Thế nhưng rồi tôi vẫn cứ
phải phân vân : trong hai người con gái, một trẻ
và xinh đẹp ngồi bên cạnh, và một người đã
chết anh dũng, ai là người đã từng mang canh
cánh trong trái tim tuổi trẻ mối tình đầu đối
với tôi suốt
mấy năm, mà tôi lại tỏ ra hờ hững ? Một trong
hai người, ai là người tôi sắp tìm đến, ai ?
Người tôi sắp tìm đến là ai ? Câu hỏi ấy cứ
xoay trong óc tôi, như một cái dùi nung đỏ bỏng
rát. Nếu Nguyệt đã hy sinh thực thì tôi sẽ mang
mối hận mãi mãi. Xe đang lao qua quãng dốc. Từng
mảng rừng, lèn đá, những bãi gianh ngổn ngang hố
bom từ trên cao rơi áp xuống tấm kính buồng lái.
Tôi qua đi bỗng như có linh tính, vội đạp phanh
cho xe chậm lại. Qua tấm kính trước mặt, hiện ra
một ngọn đèn pháo sáng xanh lét run rẩy soi loè
nhoè, ở trên đầu.
- Không nghe tiếng máy bay sao lại có pháo sáng
hử ! - Tôi nghe ngóng và thốt lên. Từ đầu, cô
gái ngồi chống khuỷu tay lên thành cửa nhìn ra
ngoài. Cô quay vào, nói :
- Không phải đâu. Trăng đó anh ạ.
Trăng thật. Hôm
nay đầu tháng. Từ đầu hôm, tôi vẫn đi giữa
đêm trăng mà không biết. Cô gái vẫn bình thản
ngồi nhìn ra ngoài trời. Tôi quẹt diêm châm một
điếu thuốc rồi tăng số cho xe phóng nhanh hơn,
trong lòng vẫn không hết gượng. Già đời trong
nghế lái xe, bom đạn nguy hiểm gặp đã nhiều,
tôi vốn không phải anh nhút nhát, vậy mà không
hiểu sao đêm nay nhìn trăn ra pháo sáng ! Qua tầm
kính ướt hơi sương, mảnh trăng nằm giữa những
tầng mây hiện ra tái ngắt, ánh sáng loè nhoè,
mỗi lúc xe nảy lên hay vòng qua chỗ lượn, mảnh
trăng lại chập chờn lay động, có lúc thấy rơi
tõm xuống khoảng tối mịt mù của cánh rừng già
như một trò chơi ú tim. Khoảng gần khuya, trên
các chỏm rừng, gió tây nam cuốn mây xám về một
góc rồi thổi giạt đi. Gió thổi vào cành lá
nguỵ trang trên nóc xe ràn rạt. Trên đầu chúng
tôi, khoảng trời đêm trên cao trở nên trong vắt,
cao lồng lộng, trong khoảng sâu thẳm nổi lên một
tiếng chim mơ hồ. Nhưng ở lưng các cánh rừng,
sương trắng không biết từ đâu cứ đùn ra mãi.
Dòng sông bên trái đường phút chốc biến mất,
chỉ còn là sương trắng phủ kín, thảng hoặc mới
thấy một chỏm rừng, một ngọn núi đá bên kia
sông nhô lên, đen đủi và cô độc giữa một mầu
trắng xoá. Xe tôi chạy trên lớp sương bềnh
bồng. Mảnh trăng khuyết đứng yên ở cuối trời,
sáng trong như một mảnh bạc. Khung cửa xe phía cô
gái ngồi lồng đầy bóng trăng. Không hiểu sao,
lúc ấy, như có một niềm tin vô cớ mà chắc chắn
từ trong không gian ùa tới tràn ngập cả lòng
tôi. Tôi tin chắc chắn người con gái đang ngồi
cạnh mình là Nguyệt, chính người mà chị tôi
thường nhắc đến. Chốc chốc, tôi lại đưa mắt
liếc về phía Nguyệt, thấy từng sợi tóc của
Nguyệt, đều sáng lên. Mái tóc thơm ngát, dày
và trẻ trung làm sao ! Bất ngờ, Nguyệt quay về
phía tôi và hỏi một câu gì đó. Tôi không kịp
nghe rõ vì đôi mắt tôi đã choáng ngợp như vừa
trông vào ảo ảnh. Trăng sáng soi thẳng vào khuôn
mặt Nguyệt làm cho khuôn mặt tươi mát ngời lên
và đẹp lạ thường ! Tôi vội nhìn thẳng vào
đoạn đường đầy ổ gà, không dám nhìn Nguyệt
lâu. Từng khúc đường trước mặt cũng thếp từng
mảnh ánh trăng...
- Anh nhỉ ? Có
phải không nhỉ...
- Cô hỏi gì ?
- Em hỏi có phải các anh lái xe đi nhiều nơi,
chắc hẳn quen biết nhiều người lắm ?
- Ðời lái xe chúng tôi như vạc ấy, cô ạ ! Nay
rừng này, mai qua suối kia, nhưng tháng này sang
tháng khác vẫn làm bạn với đường, với trăng
thôi.
Chẳng biết lúc ấy ai mới móc miệng cho mà tôi
bỗng trở nên ăn nói văn vẻ đến thế ! Quá nửa
đêm, chúng tôi đến gần cầu Ðá Xanh thì trăng
lặn. Chúng tôi không nói chuyện nữa. Mảnh trăng
đã khuất hẳn xuống khu rừng ở sau lưng. Tôi bật
chiếc bóng đèn quả dưa cho sáng hơn và bảo
Nguyệt : "Cô chú ý nghe hộ, từ đây đường
thường có máy bay" ; Nguyệt vẫn thản nhiên
ngồi nhìn ra ngoài : - "Anh cứ yên tâm, đoạn
này, em quen lắm !". Nguyệt hướng dẫn cho tôi
đánh xe rẽ sang con đường xế về phía ngầm. Con
đường thấp hẳn xuống, quanh co, sục lên một thứ
bùn quánh nhão nhoét quanh những hố bom cũ và
mới. Tôi dán mắt qua mặt kính, thận trọng lái
hai bánh trước tránh hai vệt bánh xe như hai cái
rãnh thoát nước ở giữa đường. Có đoạn, bánh
trước sục xuống rãnh sâu quá, Nguyệt phải xuống
"xi-nhan" cho tôi kéo lên. Có đoạn không
nhích lên được. Tôi phải cài số phụ, rồi tăng
ga mãi. Không khí trong buồng lái nóng sực. Lốp
xe quay tròn, xiết trên đá khét lẹt. Nguyệt nhìn
đoạn đường khó đi, nói như thanh minh :
- Chúng nó ném bom luôn, chúng em đã rải bao
nhiêu đá mà đường sá còn ra thế !
Tôi vò chiếc mũ vải trong bàn tay, lau mồ hôi
rồi tính đến lúc sắp phải từ biệt Nguyệt :
- Cô sắp xuống rồi chứ ? Bao giờ xuống, cô bảo
tôi để tôi dừng xe.
Ðáng lẽ Nguyệt đã xuống ngang quãng trạm gác
bến ngầm ở ngã ba, nhưng cô muốn đưa tôi đi
tiếp sang bên kia sông. Cô cười, nói đùa :
- Anh đã cho em đi nhờ xe, lúc khó khăn lại bỏ
anh ư !
Tôi nói rất nghiêm trang :
- Thế nào chúng ta cũng còn gặp nhau ! Mà dù cô
xuống từ dưới kia, tôi cũng không bao giờ nghĩ
cô là một người khi khó khăn thì bỏ người
khác.
- Sao vậy, anh ?
- Trông cô, tôi biết...
Một làn nước
hiện ra trước mặt. Ðoạn ngầm Ðá Xanh ngắn
thôi, nhưng mấy hôm trước mưa lũ, nước dâng
cao trên mặt đá đến hơn một mét. Vừa đánh xe
xuống, đã nghe nước tràn vào ống sả hơi ùng
ục. Chiếc xe lắc điên đảo, lúc ngoi lên lúc
hụp xuống như một con trâu nước dữ tợn. ánh
đèn chiếu sáng mặt nước loang loáng. Ra đến
quá nửa ngầm thì nước sâu quá, xe không đi
được nữa. Nguyệt đứng bám bên cánh cửa hướng
dẫn cho tôi đi đúng giữa hai hàng cọc tiêu. Cô
vội nhảy ùm xuống nước, bảo tôi tắt đèn.
- Có máy bay à ?
- Ðể em nghe kỹ xem đã. Anh cứ tắt đèn đi.
Loáng đèn dưới nước trông xa lắm đấy !
Ðèn tắt. Chưa bao giờ trời tối đến thế, chỉ
nghe tiếng nước vỗ ì oạp vào tai xe. Tôi cố
tiến, lùi nhưng xe chỉ lắc lư, vòng lái nặng
như cối đá. Giữa đêm lạnh mà quần áo tôi
ướt đẫm. Nguyệt để cả quần áo thế, nhanh nhẹn
lội phăng sang bên kia bờ giúp tôi cột dây tời
vào một gốc cây. Tôi xoay sở như đánh vật một
lúc, cuối cùng cũng đưa chiếc xe leo lên được
tới quãng đường rải đá khấp khểnh. Chúng tôi
thở không ra hơi, đang mồ mẫm cuốn dây tời thì
máy bay đến. Từ sau rặng núi đá dựng đứng bên
trái, bọn chúng ập đến như tiếng sét. Tiếng
máy bay ầm ầm. Tôi vứt vòng dây sắt nặng trĩu
trên tay, chạy nhào về phía xe. Vừa chạy được
hai bước, tôi đã bị Nguyệt túm trở lại, nhanh
và khoẻ hết sức. Nguyệt đẩy tôi ngã vào giữa
một vật gì rất cứng và sâu. Nghe hơi thở và
tiếng nói của Nguyệt rất bình tĩnh : "Chúng
đánh toả độ đấy !". Một ánh chớp giật
mát lạnh, đất rùng lên một hồi. Lặng đi mấy
giây, tưởng có thể nghe được tiếng vỗ cánh
của một con dế rất nhỏ, bỗng đâu đất, đá và
cành cây bé cành cây lớn rơi ầm ầm, rào rào.
Tôi vừa kịp nhận ra mình đang đứng giữa một
cái khe chỉ vừa một người hai bên là hai gốc
cây to. Nguyệt đang nấp ở mé ngoài. hai thằng
địch khác lại sắp lao xuống, lại sắp một đợt
khác ! Tôi nắm tay kéo Nguyệt vào khe, nhưng
Nguyệt nhất định không chịu. Nguyệt thét lên :
"Anh bị thương thì xe cũng mất, anh cứ nấp
đó !" Không ngần ngại, tôi bế xốc Nguyệt
đặt giữa cái khe giữa hai gốc cây rồi chạy về
phía xe đỗ. Ðịch bắn hai mươi ly đỏ lừ, nghe
rát cả mặt. Xe tôi vẫn đứng đó, lửa đã bén
vào lốp. Tôi dập lửa, trèo lên xe, nổ máy.
Nguyệt cũng vừa chạy đến bên cánh cửa.
- Cho xe chạy đi anh, nó còn tiếp tục đánh ngầm
đấy !
- Chạy chứ !
Một loạt bom rất
gần, hơi bom xô Nguyệt ngã dúi. Tôi kéo Nguyệt
vào trong đóng cửa buồng lái rồi chẳng đèn
đóm gì hết, cứ theo lời Nguyệt chỉ đường, tôi
cho xe phóng. Ðịch quây tròn trên đầu như xay
lúa, rất thấp, thả pháo sáng và bắn hai mươi
ly. Mặc, tôi cứ chạy, và Nguyệt cứ nói rành rọt
như người đếm bên cạnh :
- Anh ngoặt sang trái... Trước mặt có hố bom
đấy... Chuẩn bị, sắp lên một cái dốc có
"cua"...
Qua một quãng khó
đi và tối quá, Nguyệt nhảy xuống đi dò trước.
Tôi cứ nhằm cái bóng trắng nhờ nhờ của Nguyệt
trước mặt mà lái theo.
Lên quá độ hai kilômét, tôi dừng xe nép vào
bên một "ta luy" cao có cây rậm. Tôi bật
đèn buồng lái. Cái tôi trông thấy đầu tiên là
có vết máu bên vai Nguyệt, vết máu chảy xuống
đỏ cả cánh tay áo xanh. Chết thật, cô ta bị
thương rồi ! Không biết Nguyệt bị thương loạt
bom đầu tiên, lúc tôi nấp dưới khe, hay khi cô
vùng chạy theo tôi trở về xe ? Thú thực, lúc ấy
trong lòng tôi dấy lên một tình yêu Nguyệt gần
như mê muội lẫn cảm phục. Nguyệt nhìn vết
thương, cười. Khuôn mặt hơi tái nhưng vẫn
tươi tỉnh và xinh đẹp. Từ đầu đến chân, cô
ta ướt như một con công vừa tắm. Tôi rút chiếc
mùi xoa đầy vết dầu mỡ trong túi, buộc ngoài
lần áo xanh để cầm máu. Tôi đề nghị đưa
Nguyệt sang bên kia ngầm về đơn vị, nhưng Nguyệt
gạt đi :
- Ðây là giang sơn của em rồi. Anh đi đi, không
trời sáng mất !
- Rồi Nguyệt lại cười : - "Anh cứ yên tâm,
vết thương chỉ sướt da thôi. Từ giờ đến sáng,
em có thể đi lên đến tận trời được !".
Gà rừng đã eo óc gáy thưa thớt.
Tôi không thể bỏ
xe được. Tôi đành từ biệt Nguyệt, nắm bàn tay
thấm ướt máu rất lâu, và tôi nói một lời hứa
đinh ninh : "Ngày mai, tôi quay về, nhất định
tôi vào... thăm Nguyệt !".
Tôi lên xe, phóng như bay về phía tiền tiêu, với
một tâm trạng vui sướng và rộn ràng rất lạ, và
lại rất lo lắng cho Nguyệt, lúc nào cũng thấy
trước mắt bóng một người con gái mặc áo xanh,
một bên cánh tay buộc chiếc mùi xoa của tôi, với
chiếc làn và chiếc nón trắng mới, cô ta đang đi
trở lại về phía ngầm. Có lúc, tôi lại thấy cô
quay lạ, khuôn mặt đẹp lộng lẫy đầy ánh
trăng...
- Thế nào, kể tiếp đi ! Ngày hôm sau sống chết
cậu cũng phải mò tới cái đội nữ công nhân ấy
chứ ? - Những người nghe chuyện vẫn tỉnh như
sáo. Có lẽ đã hai ba giờ sáng. Gà rừng gáy eo
óc, thưa thớt. Nghe tiếng đôi chim trống mái gọi
nhau đã gần hơn. - Ðêm ấy tôi chạy nhanh đến
như vậy, nhưng lên đến tiền tiêu giao hàng cho
kho xong, thì trời đã gần sáng. Thế là không
kịp quay về rừng săng lẻ giấu xe nữa, đành
đánh xe đi giấu ngay ở đấy. Và lại hí húi đi
kiếm lá nguỵ trang, tháo xăng, nấu cơm ăn. Thật
chán hết sức ! Thế là bay đi một ngày phép !
Ðại đội trưởng lại bố trí cho tôi đi một
chuyến nữa lên tiền tiêu vào ngay đêm sau. Lần
này, tôi kịp ghét thăm chỗ hạt giao thông của
chị tôi, cũng đóng không xa đội nữ công nhân
phụ trách ngầm.
Lán đội nữ công
nhân giữa khu rừng săng lẻ rất đẹp. Con gái bao
giờ họ cũng chu đáo và chăm chỉ chứ không tềnh
toàng như chúng mình. Lán họ ở sạch sẽ, ngăn
nắp, có nhà ăn, nhà câu lạc bộ... Thấy tôi
đến, chẳng phải chị chị Tính, mà các chị em
khác đều niềm nở, toàn là những tay ăn nói
khiếp cả. Nhưng còn tôi lòng dạ nào mà đối
đáp với họ ! Việc đầu tiên là tôi quan sát
thần sắc của chị Tính ; hai ngày qua tôi đã tin
chắc chắn không thể nào sai được rằng người
con gái mình đang tìm gặp thì đã gặp, nhưng
đến đây, tôi lại nghĩ Nguyệt có thể là người
con gái đã anh dũng hy sinh từ cách đây ba, bốn
tháng. Chị Tính dẫn tôi vào nhà, và trách :
- Hôm kia, sao cậu không về ? Nguyệt nó chỉ tranh
thủ lên được có một hôm, đợi cậu suốt ngày
không thấy, cô ấy lại phải về dưới ty rồi !
Thế là trống ngực tôi không đánh nữa. Tôi tò
mò hỏi :
- Cô ấy về dưới ty làm gì !?
- Cô ấy đang dở học lớp đảng viên mới ở dưới
đó. Hai chị em chúng tôi đang dở chuyện thì một
chị to béo, trạc gần bốn mươi, hai tay cắp hai
cái bì đựng măng xồng xộc đi vào và hỏi :
- Ðâu, cậu Lãm, em trai chị Tính tới mà sao
không đến trình diện với tôi hử ? - Chị túm
lấy tôi trong hai bàn tay hộ pháp : - Mặt mũi
sáng sủi đấy chứ, lái xe à ? Tôi hỏi thế này
nhé, anh đã biết tội của anh chưa ?
Chị Tính cứ ôm
miệng cười. Còn tôi thì chẳng hiểu gì cả. Lát
sau, mới biết chị làm tổ trưởng nấu ăn của
đội, đấy chính là chị Nguyệt "lão",
một người bạn thân thiết của chị tôi từ lâu.
Chị Nguyệt "lão" vui vẻ "mắng"
tôi một hồi nữa, đầy những "cớ sao",
"cớ sao" mấy năm trời để cho "cái
Nguyệt" nó đợi đỏ mắt, có muốn "tìm
hiểu" người ta hay không thì cũng phải bảo
một câu chứ ! Rồi chị kể : hôm nọ,
"nó" trở lên đây, đi nhờ xe vận tải
của một anh bộ đội, xe bị bom dọc đường, may
mà chỉ bị thương rất nhẹ thôi. Chị hỏi :
"anh vẫn chưa biết mặt nó, hử ?" rồi
kéo tuột tôi đến trước một hàng ảnh nhỏ xít
dán chi chít trên tờ giấy bao xi măng giữa nhà
câu lạc bộ.
Chị Nguyệt
"lão" chưa kịp trỏ, tôi đã nhận ra tấm
ảnh của Nguyệt. Cách đây mấy năm, trông cô như
một con chim non đang tập bay. Nguyệt đang đứng
cheo leo giữa lưng núi, trên vai vác một chiếc
máy khoan, đôi mắt đen láy ngây thơ nhìn ra xa.
Nhìn bức ảnh ấy, tôi không khỏi nhớ những ngày
rộn ràng xây dựng những chiếc cầu. Ngọn núi
Nguyệt đang đứng chính là một ngọn trong dãy
núi đá xanh cao sừng sững nằm bên trái bến
ngầm. Ngày khởi công xây dựng chiếc cầu ở đây,
đội đá của công trường có hàng trăm cô.
Tháng này sang tháng khác, với một sợi dây da
bảo hiểm buộc ngang lưng, họ dũng cảm trèo lên
những tầng đá cao, chọn những vỉa đá xanh đẹp
nhất về xây cầu. Chiếc cầu làm trong gần hai năm
mới xong, xanh biếc và đẹp như một giấc mộng,
nhưng vừa khánh thành được mấy tháng thì máy
bay Mỹ đã đem bom tới phá sập. Buổi chiều hôm
đó, chị Tính và chị Nguyệt "lão" tiễn
tôi ra đến bờ sông. Chị Nguyệt "lão"
giơ nắm tay to lớn ra trước mặt tôi :
"Khối anh cán bộ khá hẳn hoi muốn yêu nó.
Nó chỉ chờ gặp anh đó thôi ! Coi chừng cứ phóng
xe chạy biến đi, tôi không có dây tơ hồng nhưng
đã có dây trói lợn trói anh lại" !
Tôi vội vàng
nhét vào trong chiếc túi cấp dưỡng nhọ nhem của
chị một chiếc phong bì miên rất cẩn thận. Suốt
buổi trưa, tôi đã mượn giấy bút biên cho
Nguyệt lá thư đầu tiên. Ra đến rừng săng lẻ,
tôi chưa về chỗ giấu xe vội, mà men bờ sông ra
ngoài cầu. Con sông miền Tây in đầy bóng núi
xanh thẳm, hai bên bờ cỏ lau chen với hố bom.
Chiếc cầu bị cắt làm đôi như một nhát dìu
phang rất ngọt. Ba nhịp phía bên này đổ sập
xuống, những phiền đá xanh lớn rơn ngổn ngang
dưới lòng sông, chỉ còn hai hàng trụ đứng trơ
vơ giữa trời. Tôi đứng bên bờ sông giữa cảnh
một chiếc cầu đổ và lại tự hỏi : qua bấy nhiêu
năm tháng sống giữa cảnh bom đạn và tàn phá
những cái quý giá đó chính bàn tay mình xây
dựng nên, vậy mà Nguyệt vẫn không quên tôi sao ?
Trong tâm hồn người con gái nhỏ bé, tình yêu và
niềm tin mãnh liệt vào vuộc sống, cái sợi chỉ
xanh óng ánh ấy, bao nhiêu bom đạn giội xuống
cũng không hề đứt, không thể nào tàn phá nổi
ư ? ...Người kể chuyện tự nhiên ngừng bặt như
đang lắng nghe tiếng trả lời đâu từ trong lòng
mình. Những người bạn cũng không hỏi, không
đòi kể tiếp và nói chuyện ồn ào như những lần
trước. Hẳn đã gần sáng. Ngoài rừng sâu, đôi
chim gọi nhau suốt đêm đã im tiếng, có lẽ chúng
đã tìm thấy nhau. Chân trời phía rừng Tây bỗng
ửng sáng. Rồi trăng đội chỏm cây từ từ nhô
lên. Từng chiếc lá đùng đình trên nóc lán loé
sáng như những mảnh bạc. ánh trăng khuya lặng lẽ
soi đầy trên mái và đoạn đường đầy vết xe
trước cửa. Người kể chuyện ngẩng lên ngắm mảnh
trăng vừa lên rồi nằm xuống giữa những người
bạn lái xe. Anh giục :
- Ngủ thôi các cậu ! Mai còn chạy...
Lên đầu
trang
|